Springflavor.9forum.biz
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


Hát vang rằng em iu anh
 
Trang ChínhPortalGalleryLatest imagesĐăng kýĐăng Nhập

 

 Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm)

Go down 
Tác giảThông điệp
spring_flavor
Admin
Admin
spring_flavor


Nữ
Tổng số bài gửi : 367
Age : 33
Registration date : 04/01/2009

Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm) Empty
Bài gửiTiêu đề: Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm)   Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm) I_icon_minitimeSat Jan 10, 2009 10:21 pm

Đất nước (Trích trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm


Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ như Lê Anh Xuân, Bằng Việt, Nguyễn Mĩ, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh… Nguyễn Khoa Điềm nổi tiếng với hai tác phẩm là trường ca “Mặt đường khát vọng” và bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”.

Nguyễn Khoa Điềm cũng như một số nhà thơ hàng đầu của thế hệ ông đã cảm nhận sâu sắc thời điểm lịch sử trang nghiêm nên đã để tâm huyết vào chủ đề lớn của thơ ca là đất nước. Và tất nhiên để phù hợp với nội dung phong phú, rộng lớn đó, phải có một hình thức có dung lượng lớn là trường ca. Cho nên nhiều trường ca đã ra đời trong giai đoạn văn học này mà nổi tiếng hơn cả là ba trường ca “Những người đi tới biển” của Thanh Thảo, “Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh và “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm.

“Đất nước” là một đoạn trích thuộc phần đầu chương V – chương trọng tâm của trường ca “Mặt đường khát vọng”, (chương năm), là chương trong tâm của tác phẩm. Tác giả tập trung trong chương thơ này là những cảm nhận và suy nghĩ sâu sắc về đất nước: “Đất nước này là Đất Nước Nhân Dân”.

Nhận thức mới mẻ ấy cũng chính là sự lựa chọn, ý thức về trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với đất nước và dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất nước nhà.

Nguyễn Khoa Điềm kết hợp giữa trữ tình và chính luận, lối kết hợp này trong thơ giống Chế Lan Viên (thường các nhà thơ tự sáng tác những bài thơ dài và trường ca đều kết hợp giữa trữ tình và tự sự). Trữ tình – Chính luận phát huy đựơc mặt trí tuệ, thể hiện sự uyên bác với những kến thức sách vở triết lí, nếu biết khéo léo kết hợp với xúc cảm, với tri thứ nhỡn kiến thì sẽ tạo ra sự hấp dẫn lạ lùng cho thơ.

Ta có thể hình dung chính luận trong khúc trường ca này như một sợi dây: Đất nước trường tồn trong chiều dài thời gian, trong chiều rộng không gian, trong phong tục tập quán, trong tâm hồn và tính cách của người Việt. Bằng sợi dây dẻo dai ấy, những hạt cườm trữ tình óng ánh, lung linh được xâu lại thành chuỗi cườm “Đất Nước muôn đời”.

Ta hãy xem nghệ thuật xâu cườm dẻo dai, cần mẫn, khéo léo của thi sĩ Nguyễn Khoa Điềm:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Điệp ngữ “Đất Nước” vọng lên khúc nhạc thiêng liêng. Thiêng liêng về thời gian thăm thẳm “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”, thiêng liêng với cổ tích, thiêng liêng với “miếng trầu bây giờ bà ăn”, thiêng liêng với sự trưởng thành về ý thức bảo vệ Tổ quốc:

“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Nhờ “sợi chỉ” chính luận mà những “hạt cườm” của đời sống vật chất (miếng trầu, cây tre, tóc, cái kèo cái cột, hạt gạo…) và đời sống tinh thần (chuyện cổ tích, cha mẹ thương nhau…) được xâu lại tạo ra hết bất ngờ này đến bất ngờ khác:

“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

Tác giả chuyển từ những câu kể sang những câu đẳng thức, từ những chi tiết xa xôi đến những chi tiết gần gũi đậm đặc trữ tình. Ca dao thấm trong từng lời:

“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
“Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

Nếu thời gian hiện lên trong “chuỗi cườm” trữ tình – chính luận thật là thiêng liêng thì không gian hiện lên thơ mộng, hùng vĩ:

“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
… Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”

Để mở rộng khái niệm đất nước, tăng cường bề dày, bề sâu của khái niệm này, tác giả điệp lại kiểu câu đẳng thức “Đất là…”, “Nước là…” nhưng các hình ảnh của xúc cảm, của ý tưởng đều mới, giống như những biến tấu trong âm nhạc vừa nhấn mạnh chủ đề, vừa mở rộng chủ đề gây ấn tượng mới lạ.

Luận lí của mạch chính luận là từ xa đến gần, từ khái quát đến cụ thể, từ ngoài vào trong, từ cộng đồng đến cá nhân:

“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn”

Những suy nghĩ về đất nước trong mỗi cá nhân càng sâu sắc thì giọng điệu trữ tình càng thống thiết:

“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”

Để dẫn đến những suy luận về sự trường tồn của đất nước, nhà thơ đã huy động vốn kiến thức của sách vở, của đời sống, của lịch sử, địa lí, của truyền thuyết, của ca dao, của phong tục tập quán… Mỗi chi tiết đều có tính thẩm mĩ và được nuôi dưỡng trong xúc cảm của nhà thơ, cho nên suy luận thơ của tác giả vừa có sức thuyết phục về trí tuệ lại vừa truyền cảm.

Sang đoạn hai, nhà thơ phát triển và mở rộng chủ đề Đất Nước để dẫn đến chiều sâu của khái niệm này là “Đất Nước Nhân dân”.

Vẫn là mạch trữ tình – chính luận, nhưng trên sợi chỉ chính luận, ta nhận ra những hạt cườm có màu sắc và hình dạng khác. Trên kia là những hình ảnh của “Đất Nước đã có rồi” và đây là những hình ảnh của con người các thời đại “góp cho Đất Nước”. Phẩm chất thi sĩ biểu hiện ở sự lựa chọn những “hạt cườm” để xâu vào sợi dây chính luận ấy.

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên”

Hồi đó đất nước còn đang bị kẻ thù chia cắt, nhà thơ viết trường ca “Mặt đường khát vọng” ở chiến trường, nhưng trong tư duy của nhà thơ là một đất nước thống nhất. Những tên đất, tên núi, tên sông, sự tích, những truyền thuyết đều gắn bó máu thịt trong một cơ thể thống nhất. Vừa mới thấy “những núi Vọng Phu” đâu như ở Bình Định (mà núi Vọng Phu trên đất nước ta nơi nào chẳng có) đã thấy “hòn Trống Mái” ở Sầm Sơn (Thanh Hoá), vừa mới thấy “gót ngựa của Thánh Gióng” suốt dọc đường từ Bắc Ninh đến Lạng Sơn đã thấy “những con rồng” xanh thẳm ở Nam Bộ (sông Cửu Long). Những “núi Bút, non Nghiên” ở xứ Quảng, những “con cóc, con gà” ở Hạ Long, nhưng “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm” đều góp phần tạo ra “một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”. Đất nước thống nhất trong máu thịt, trong xương tuỷ, trong tình cảm, trong ước vọng như thế, kẻ thù nào chia cắt được!

Nhưng đó chỉ là một khía cạnh tư tưởng chủ đề của khúc trường ca này. Những dòng khái quát sau đây mới là dòng mạch chính của chủ đề tác phẩm:

“Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”

Rồi nhà thơ chuyển từ bút pháp sử thi sang giọng điệu trữ tình, nhà thơ tâm tình với “em” mà tìm sự đồng cảm của hết thảy chúng ta:

“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con…”

Càng nhìn sâu vào “bốn nghìn năm Đất Nước”, nhà thơ càng thấm thía với công lao xây dựng, vun đắp, bảo vệ đất nước. Đặc biệt là lớp người tuổi trẻ, những “con gái, con trai bằng tuổi chúng ta” đã làm cho nhà thơ xúc động mãnh liệt. Có lẽ đây là trực cảm của nhà thơ đối với lớp thanh niên trong thời kì chống Mĩ cứu nước:

“Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”.

Chính những người anh hùng vô danh ấy đã “giữ và truyền” cho ta từ hạt lúa đến ngọn lửa, từ ngôn ngữ đến hành động:

“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân”

Như vậy là theo mạch chính luận và suy tưởng, tác giả đã dẫn dắt đến chiều sâu chủ đề khúc trường ca. Nhưng tác giả không dừng ở phát hiện “Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân” mà còn muốn cho khái niệm này ngân vang lên trong thần thoại, trong cổ tích, trong ca dao dân ca. Khúc trường ca không bị khô khốc trong triết lí mà trở nên hồn nhiê, tươi mát, huyền ảo:

“Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”(1)
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội(2)
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu…”

“Đất nước” là một trích đoạn hay trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm. Bằng trữ tình – chính luận, tác giả đã khéo léo dẫn dắt đến chủ đề sâu sắc là Đất Nước Nhân Dân. Xúc cảm trực tiếp, mãnh liệt từ cuộc chiến đấu sinh tử của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mĩ mà tác giả đã huy động tình cảm, trí tuệ, kiến thức về địa lí, lịch sử, văn học, đặc biệt là văn học dân gian để diễn tả sức mạnh thần kì của Nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Một “Đất Nước Nhân Dân” tươi đẹp và thần kì như thế sẽ chiến thắng bất kì kẻ thù xâm lược nào.
Về Đầu Trang Go down
https://xamlap.forumvi.com
spring_flavor
Admin
Admin
spring_flavor


Nữ
Tổng số bài gửi : 367
Age : 33
Registration date : 04/01/2009

Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm)   Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm) I_icon_minitimeSat Jan 10, 2009 10:22 pm

Tư tưởng “Đất nước của Nhân dân” đã được thể hiện như thế nào trong đoạn thơ Đất nước ( trích Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm


A – gợi ý chung
- Tư tưởng “Đất nước của Nhân dân” không chỉ là kết quả nhận thức của riêng một người mà là của cả một thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
- Phải đánh giá chất lượng mới có sự nhận thức nghệ thuật về đất nước trong mối quan hệ với toàn bộ lịch sử văn học dân tộc.

B – gợi ý cụ thể
a) mở bài
- Đất nước là chương V của trường ca Mặt đường khát vọng , được sáng tác vào năm 1971
- Nó đã thể hiện được những nhận thức sâu sắc của tác giả về đất nước.

b) thân bài
- Đất nước trong chương thơ đã được nhìn ở tầm gần. Nó hiện lên với vẻ dung dị, gần gũi.
- Khi nói về lịch sử và địa lý của đất nước, tác giả chú ý đến đóng góp của những con người vô danh.
- Hạt nhân của nhận nhận thức nghệ thuậ về đất nước là tư tưởng “Đất nước của Nhân dân”. Tư tưởng này vừa là kết quả của cái nhìn ở tầm gần nói trên lại vừa chi phối chính cái nhìn đó.
- Tác giả đã nhìn đất nước bằng tinh thần trách nhiệm của một nhà thơ công dân
- Đoạn thơ có hình thức biểu đạt rất phù hợp : giọng điệu tâm tình, lắng đọng, chi tiết đời thường rất giàu có, các “thi liệu” lấy từ văn học dân gian được vận dụng sáng tạo và sát hợp.

c) Kết bài
- Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm một cái nhìn độc đáo về đề tài đất nước.
- Là tiếng nói đại diện cho thanh niên thời chống Mĩ nhận thức về đất nước.

C– Bài làm 1

Cảm hứng về đất nước là ngùôn cảm hứng lơn, xuyên suốt trong thơ ca Việt Nam. Có rất nhiều trường h ợp cảm hứng đất nước quyện chặt với cảm hứng của nhân dân. Nhưng có điều cách nhìn và cảm xúc đất nước và nhân dân ở mỗi tác phẩm đặc sắc đều không lặp lại, nó mang đậm dấu ấn của thời đại và cảm xúc của nhà thơ. Đoạn thơ Đất nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm là một thành công xuất sắc trên phương diện cảm hứng về đất nước của thơ ca thời kháng chiến chống Mỹ.
Gần cuối đoạn thơ tác giả có viết... “Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân - Đất Nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại”. Có thể nói hai câu thơ đã thể hiện được tư tưởng và cảm hứng chủ đạo của nhà thơ - Cảm hứng đất nước của nhân dân. Căn cứ vào đâu mà ta nói như thế ? Và tư tưởng, cảm hứng ấy thể hiện cụ thể ở những phương diện nào?
Thơ tự do có khả năng chuyển tải tài cảm nhiều nhất, phóng túng nhất, chân thành, tha thiết nhât. Đoạn thơ Đất nước được tác giả viết theo kiểu ấy nên dễ truyền cảm hứng cho người đọc, dễ lay động những điều thầm kín nhất của lòng người. Đoạn thơ lập luận chặt chẽ, lô gích, thể hiện cảm hứng chủ đạo trên ba bình diện. Đó là cảm hứng về chiều dài thời gian – lịch sử, ciều rộng không gian-địa lý và trong chiều sâu của văn hoá phong tục, của lối sống thể hiện tâm hồn và tính cách dân tộc. Trên mỗi bình diện, tác giả đã thể hiện một cách sâu sắc tư tưởng cốt lõi “Đất Nước Nhân dân”.
Để diễn đạt sự hình thành đất nước trong chiều sâu lịch sử, nhà thơ không dùng những sử liệu, mà bằng những gì thân thuộc nhất trong đời sống của nhân dân:
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Nhận thức về đát nước bốn nghìn năm đã trở nên thật cụ thể, sống động, gần gũi.
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó.
Làm nên đất nước bốn nghìn năm chính là những con người bình dị đso là nhân dân vô tận. Vì vậy khi nhớ đến “thời gian đằng đẵng” của lịch sử đất nước, tác giả không chỉ nhớ đến anh ùng có tên tủôi mà nhấn mạn đến những con người bình dị:
Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Nhân dân đã tạo dựng nên giá trị vật chất và tinh thần và truyền sang các thế hệ:
Họ giữ và truyền lại cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói.
Họ cũng là những người đem xương máu giữ gìn non sông đất nước:
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Cùng với thời gian “đằng đẵng” đất nước còn là không gian mênh mông, đó là non sông gấm vóc, là rừng biển quê hương. Tất cả được dựng lên từ mồ hôi, máu thịt của bao lớp người. Từ quan niệm đất nước của nhân dân, tác giả đã có cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu về những phong cảnh thiên nhiên.
Từ những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp cho Đất Nước Hòn Trống Mái
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước núi Bút non Nghiên
Điều đáng quý là tác giả đã phát hiện trong những địa danh bình dị ở mọi miền đất nước để ẩn giấu chứa đựng cuộc đời của người dân
Những ngừoi dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm
Với những phát hiện trên, tác giả đã đi đến một cảm nhận thấm thía:
Ôi đất nước bốn nghìn năm sau đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.
Đất nước còn là chiều sâu văn hoá, phong tục của tâm hồn tính cách dân tộc Việt Nam. Thật ra cách nói thế này không phải là mới, trong Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi cũng đã đề cao truyền thống, phong tục tính cách niềm tự hào,tư tưởng lấy nhân dân là gốc.Nhưng chỗ độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm là đã thể hiện sâu đậm tâm hồn nhân dân không ở đâu khác ngoài văn hoá dân gian. Nên “Đất Nước của Nhân dân” cũng chính là đất nước của ca dao cổ tích. Tác giả đã sử dụng sâu rộng chất liệu của văn hoá dân gian, từ ca dao dân ca tục ngữ, đến truyền thuyết cổ tích, các phong tục tập quán sinh hoạt... Vì lẽ đó đoạn thơ đã đưa người đọc phiêu diêu về thế giới nghệ thuật của nhân dân với những nét tâm hồn và tính cách của dân tộc vốn gắn bó với máu thịt vơi smọi người. Việc sử dụng chất liệu văn hoá dân gian ở đây không chỉ là một thủ phép trong nghệ thuật mà đã là sự thấm nhuần quan niệm đất nước của nhân dân trong cảm hứng sáng tạo, trong tâm hồn nhà thơ. Đó chính là thể hiện tư tưởng cốt lõi của bài thơ trong việc lựa chọn chất liệu, thi tứ, xây dựng hình ảnh và ngôn ngữ nghệ thuật, khi nói đến tâm hồn nhân dân trong ca dao, dân ca...nói chung là văn hoá dân gian nhà thơ dâng trào một cảm xúc dạt dào:
Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
Biết quý công cầm vàng trong những ngày lặn lội
Biết trồng tre mà đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu.
Đoạn thơ Đất nước là một thành công của Nguyễn Khoa điềm góp thêm vào thành tựu thơ ca chống Mỹ trên hướng khai thác đề tài. Đó là đất nước của nhân dân. Quan niệm về Đất nước, nhân dân là tư tưởng chủ đạo, quán xuyến, mở ra những khám phá sâu ,mới của nhà thơ, ngay cả những chỗ rất quen thuộc. Quan niệm đó có cội nguồn từ văn chương truyền thống của dân tộc. Nhưng đến thời hiện đại, qua cách nhìn và cách nghĩ của Nguyễn Khoa Điềm tư tưởng ấy ngày càng sâu sắc và phong phú hơn.
Về Đầu Trang Go down
https://xamlap.forumvi.com
spring_flavor
Admin
Admin
spring_flavor


Nữ
Tổng số bài gửi : 367
Age : 33
Registration date : 04/01/2009

Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm)   Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm) I_icon_minitimeSat Jan 10, 2009 10:23 pm

Tư tưởng “Đất nước của Nhân dân” đã được thể hiện như thế nào trong đoạn thơ Đất nước ( trích Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm


I – Mở bài
1971, chiến trường Bình Trị Thiên hừng hực bão lửa của bom đạn, chiến tranh báo hiệu của một mùa hè 1972 đỏ lửa. Trong không khí sôi sục của thời đại đánh Mỹ trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm đã nung nấu và ra đời nó thểhiện những suy ngẫm, những nhận thức vừa rất mới mẻ vừa rất thực tiễn đối với đất nước, nhân dân mình. Chương V – ta quen gọi nó là bài thơ Đất Nước – có lẽ là chương hay nhất. Nó là nhận thức chín mùi của thế hệ trẻ Việt Nam về “Đất nước”. Nó là điểm tựa để họ xây dựng vai trò vị trí của mình trong cuộc đấu tranh vĩ đại chung của dân tộc

II – Thân bài
Điều dễ nhận thấy đầu tiên là tác giả nhìn đất nước ở tầm gần vậy mà khuôn mặt đất nước rất gần gũi thân quen. Nó bình dân, lam lũ nhưng không kém phần cao cả. Cả nhà thơ đâu đó nói về Đất Nước dường như đồng nhất cảm xúc nói tới quê hương mình, Hoàng Cầm bao lần thốt lên trìu mến : “Quê hương ta lúa nếp thơm nồng; ruộng ta khô; nhà ta cháy; quê hương ta từ ngày khủng khiếp”. Nguyễn Đình Thi và Tố Hữu nhìn đất nước trong không gian Việt Bắc. Có những câu thơ quan tâm đến nét hoành tráng, kì vĩ của đất nước:
Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi !
Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt
(Tố Hữu)
Hoặc Nguyễn Đình Thi:
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà.
Thế nhưng Nguyễn Khoa Điềm lại nói chuyện với người yêu của mình bằng giọng tâm tình thủ thỉ:
Khi ta lớn lên....đánh giặc.
Nhà thơ đã nhìn Đất nước theo quan hệ ruộ rà thân thiết ta gặp mẹ cha ta, bà mình, dân mình, ta gặp những câu chuyệ cổ tích, nhìn phong tục ăn trầu của bà, nhìn những bờ tre và sự yêu thương nhau bằng “gừng cay muối mặn”, thậm chí: “cái cột, cái kèo, hạt gạo...” tất cả đó là Đất nước. Vậy là, những giá trị truyền thống về văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần đã có từ ngày xửa ngày xưa khởi đầu của nó vẫn duy trì đến bây giờ.
“Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”, nghe qua rất vô lí nhưng ngẫm suy thì nó lại nói lên được đặc trưng văn hoá nước Việt có thể nói là văn hoá trầu cau. Nó đã có một câu chuyện cổ tích, là phong tục được vị vua tổ Hùng Vương ban truyền, nó là vật để người ta giao đãi tình cảm... Miếng trầu là biểu tượng đặc trưng nhất của văn hoá trọng nghĩa, trọng tình của người Việt. Có cách nhìn về Đất nước như vậy nên tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến tình cảm, ân nghĩa, thuỷ chung. Hình ảnh “cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, câu thơ biết quí công “cầm vàng lặn lội” muốn nói chính là chữ tình sâu thẳm của người Việt.
Sau khi trả lời câu hỏi Đất nước có tự bao giờ Nguyễn Khoa Điềm muốn giả quyết câu hỏi thứ hai Đất nước là gì? Bằng cách đưa ra định nghĩa với mẫu câu: “Đất nước là nơi” – tác giả quan tâm đến cái bình dị không gian Đất nước, người đọc rất ngỡ ngàng và cảm thấy rất thi vị khi Nguyễn Khoa Điềm không ngần ngại nói Đất nước là những chuyện thầm kín, riêng tư bài ca Đất nước là của chúng mình.
Đất là nơi... em tắm.
Thành tố âm dương ấy hợp lại đã trở thành:
Đất nước... hò hẹn.
Và một áng văn tương tự đã bay qua nỗi nhớ để dịnh nghĩa Đất nước đầy e ấp và tình tứ:
Đất nước... nhớ thầm.
Chỉ có hai thành tố là đất và nước thế nhưng mỗi lúc tháo rời nó ra, nó dẫn ta vào mê cung huyền bí, vừa thân thuộc, vừa lạ lẫm vô tận y như một đứa trẻ cứ tháo ra rồi lắp lại mà vẫn chưa hết nỗi đam mê, nhà thơ của chúng ta cũng hồn nhiên làm cái điều ngộ nghĩnh ấy để cho thoả cái điều mình muốn nói. Càng suy ngẫm đầy trách nhiệm đầy tư duy sắc sảo, đầy khám phá mới mẻ gây hứng thú cho người đọc. Định nghĩa Đất nước tác giả quan tâm đến không gian văn hóa nhưng cũng không quên cái thời gian văn háo đã làm nên một lịch sử dài đằng đẵng của cha ông. Lịch sử ấy gắn bó với địa danh, địa lí cụ thể những chi tiết rất đời thường bình dị đã cát lên thành lời thơ đầy xao xuyến tâm linh con người Việt Nam.
Những ai đã khuất
...
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.
Hai tiấng “cúi đầu” đã gợi lên ấn tượng sâu đậm trong văn hoá tâm linh người Việt, đó là sự thầm kín, ngưỡng vọng thiêng liêng đối với cội nguồn, đối với sức mạnh tinh thần cưu mang và chở che con cháu của Tổ: Chính là cộng đồng từ bọc trứng Âu Cơ, là dân tộc là đất nước, nó là dòng họ gia đình, sợi khói nhang trên bàn thờ gia tiên có năng lực đánh thức tâm linh người Việt hơn tất cả. Nói về 4.000 năm lịch sử của cha ông chúng ta Chế Lan Viên rất tự hào với nữhng anh hùng, với những người con ưu tú của dân tộc.
Hỡi dân tộc tiếng hát 4.000 năm
Tổ quốc bao giừo đẹp thế này chăng? (...)
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng.
Riêng Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ muốn nói nhiều hơn về:
Có biết bao người con gái con trai
.....
Nhưng họ đã làm ra đất nước.
Vậy là sau khi giải đáp hai câu hỏi: Đất nước bắt nguồn từ đâu? Đất nước là gì? Nguyễn Khoa Điềm đã đi vào phần hạt nhân của bài thơ: Ai đã làm ra Đất nước? tương tự như nói về địa danh, địa lí, nàh thưo không ca ngợi cái đẹp, cái trù phú như Hoàng Cầm:
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng...
ở Nguyễn Đình Thi:
Những cánh đồng thơm mát...
Nguyễn Khao Điềm chú ý nhiều đen snhững miền đất, những thắng cảnh mà tên gọi của chúng rát nôm na đậm đà chúng nói với ta nhiều điều vê cuộc sống cần lao:
Những người vợ nhớ chồng
...
Ông Trang, bà Đen, bà Điểm.
Tiếp theo là những câu thơ có tầm khái quát:
Và ở đâu... núi sông ta.
Với cách dẫn dắt câu chuyện như vậy, nhà thơ đã phát biểu trực tiếp tư tưởng “Đất nước của Nhân dân”.
Nhân dân đông đảo, nhân dân bao dung làm nên dáng vẻ, tầm vóc của đất nước. Họ là những người chân đất sáng suốt đã đúc kết những triết lý cao cả mà ta hằng tâm niệm mà ta thuộc về nhân dân nên ca ngợi dất nước có quyền nói về đời riêng của mình. Hàng loại các đại từ họ đã nói lên vai trò của nhân dân. Những người sáng tạo văn hoá vật chất và tinh thần : “Họ giữ, họ truyền lửa, họ truyền giọng điệu, họ gánh theo, họ đắp đập”. Hàng loạt những từ “giữ” và “truyền” rồi “gánh, đắp đập, be bờ” đã tạo nên độ dày của bề mặt văn hoá , đã nổi lên hình tượng nhân dân sáng tạo ra đất nước bằng cuộc lao động lớn, một cuộc chạy tiếp sức để lưu truyền mãi ngọn lửa văn hoá qua các thế hệ. Các nhà thơ khác nhau thời kháng chiến chống Mỹ có khuynh hướng ca tụng đất nước ở tầm vóc quốc tế
Ta vì ta ba chục triệu người
Cũng vì ba ngàn triệu trên đời
Vui gì hơn làm người lính đi đầu
Trong đêm tối ta làm ngọn lửa
(Tố Hữu)
Tư tưởng đất nước của nhân dân được rất nhiều nhà thơ nói tới. Tuy nhiên các tư tưởng không phải lạ lẫm gì này được Nguyễn Khoa Điềm nói bằng tất cả sự trải nghiệm và xúc động thật sự của chính mình. Ông đã đưa vốn trí thức về văn hoá dân gian cộng với suy ngẫm nghiêm túc tạo cho bài thơ vừa thuyết phục lí trí lại da diết trữ tình. Đất nước này chính là của nhân dân, trong nhân dân có anh và em vì thế tác giả nghiêm trang đề nghị:
Em ơi em...muôn đời
Rất tự nhiên không hề bị lên gân giả tạo, văn hoá trọng chữ tình sẽ là lối cư xử uống nước nhớ nguồn

III - KẾT LUẬN
Chưa bao giờ thơ ca Việt Nam lại nở rộ những vần thơ đất nước như thời chống Mỹ
Đất nước của những người con gái con trai
Đẹp như hoa hồng, cứng hơn sắt thép
Khi xa nhau không hề rơi nước mắt
Nước mắt dành cho ngày gặp mặt
(Nam Hà)
Đó là đất nước của những đoàn quân:
Quân đến, quân đi cỏ tranh ùa giá rét
Dãy Trường Sơn trùng điệp những sư đoàn
(Bằng Việt)
Và :
Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu
Nghe nặng nỗi đau của mẹ
Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ
(Tạ Hữu Yên)
Do có đóng góp riêng rất độc đáo, Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm đã chinh phục được lòng độc giả từ khi nó ra đời. Và nó có lẽ sẽ chịu đựng được những thử thách của thời gian. Chúng ta ai chẳng có một tình yêu Tổ Quốc và có lúc ta phải thốt lên lời của Nguyễn Khoa Điểm
Mọi tin yêu ngay thẳng gọi ta vào
Ta ngã vào người đất nước Việt Nam ơi !
Về Đầu Trang Go down
https://xamlap.forumvi.com
spring_flavor
Admin
Admin
spring_flavor


Nữ
Tổng số bài gửi : 367
Age : 33
Registration date : 04/01/2009

Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm)   Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm) I_icon_minitimeSat Jan 10, 2009 10:26 pm

Bình giảng đoạn thơ sau đây trong Đất Nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọ người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...


I. MỞ BÀI

Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ trẻ tiêu biểu thời chống Mỹ, cứu nước. Thơ ông giàu chất trí tuệ, cảm xúc được dồn nén và có nhiều liên tưởng phong phú. Đất nước được trích trong trường ca Mặt đường khát vọng (1971) khá điển hình cho vẻ đẹp của thơ Nguyễn Khoa Điềm những năm tháng ấy.

Đoạn trích ở trên thể hiện suy nghĩ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về mối quan hệ riêng – chung, quan hệ cá nhân – cộng đồng, sự tiếp nối của các thế hệ trong một đất nước, một dân tộc. Những suy nghĩ ấy được thể hiện bằng thơ, tức không đơn thuần là tư tưởng, mà chứa đựng cảm xúc, tình cảm của tác giả. Do đó, có sức lay động tâm tư người đọc.

II. THÂN BÀI
1. Phân tích 9 dòng thơ đầu: Cảm nhận mới của nhà thơ về đất nước

Chín dòng thơ đầu, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm nêu lên những cảm nhận của mình về đất nước. Nếu như ở đoạn thơ trước đó trong bài thơ, tác giả nhìn nhận đất nước từ bề dày văn hoá dân tộc hàng nghìn năm qua, thì ở đây lại là những suy nghĩ về đất nước từ cuộc sống hiện tại trong các mối quan hệ riêng – chung, cá nhân – cộng đồng, sự tiếp nối giữa các thế hệ.
Khổ thơ mở đầu bằng một lời khẳng định:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước

Lâu nay, trong suy nghĩ của nhiều người, đất nước, quê hương, tổ quốc, dân tộc... luôn là những khái niệm trừu tượng. Với nhà thơ trẻ đang đôi mặt với cuộc chiến tranh khốc liệt một mất một còn, đất nước gần gũi, thân thiết. Điều này chưa hẳn đã mới, trong ca dao, dân ca có không ít những câu hát như thế:
Anh đi anh nhớ quên nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm mai

Quê hương là tất cả những gì gắn bó ruột rà với con người. Đó là người ta yêu tha thiết. Đó là buổi sáng làm đồng. Đó là từng miếng ăn quê kiểng mỗi ngày...
Song, cái mới ở khổ thơ của Nguyễn Khoa Điềm là đất nước ở trong mỗi một con người, đất nước ở trong ta chưa không ở ngoài ta (Trong anh và em hôm nay.../ Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm.../ Đất Nước là máu xương của mình). Đó là nhận thức mới về đất nước. Nhận thức ấy được nêu ra để dẫn dắt đến một ý tứ khác của những dòng thơ ở cuối khổ này (từng cá nhân phải làm gì cho đất nước)
Bốn dòng thơ kế tiếp mở rộng ý ban đầu:
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn

Hai câu thơ (bốn dòng) được cấu trúc giống nhau theo kiểu cấu trúc của câu có điều kiện trong văn xuôi hay lời nói thông thường: Khi... Đất Nước. Hai câu thơ cũng là những lời khẳng định (kết quả của sự nhận thức) về một chân lý. Cả bốn dòng chỉ có một hình ảnh, lại là hình ảnh mang tính tượng trưng: cầm tay diễn tả sự thân thiết, tin cậy, yêu thương lẫn nhau. Hình ảnh ấy đi liền với những tính từ chỉ mức độ (hài hoà, nồng thắm, vẹn tròn, to lớn). Bởi vậy, dù ý tứ tuy không phải là quá mới mẻ, song, những câu thơ ấy lại có sức nặng của tình cảm chân thành. Những câu thơ này còn có một tầng nghĩa thứ hai, tác giả không trực tiếp nói ra. Đó là đất nước không phải là một khái niệm trừu tượng, càng không phải một giá trị bất biến, có sẵn. Đất nước là một thực thể sống và sự sống ấy ra sao ở về phía tất cả những con người trong đất nước đó. Nói rõ ràng ra, đó là mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, giữa mỗi một con người với đất nước. Nhưng như thế thì còn gì là thơ nữa!

Từ câu chuyện hiện tại, nhà thơ tiếp tục mạch cảm xúc và suy nghĩ về đất nước ở tương lai:
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Đất nước không chỉ có ngày hôm qua và hôm nay. Đất nước của ngày mai. Từng thế hệ kế tiếp sẽ làm cho đất nước trường tồn mãi mãi.

Trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến khốc liệt thời bấy giờ, phải thấy ở những câu thơ trên còn là một khát vọng: Đất nước sẽ hoà bình, đất nước sẽ tươi đẹp và còn nhiều hơn thế nữa.

2. Những khổ thơ cuối, nhà thơ nêu lên trách nhiệm của cá nhân đối với đất nước
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...

Cấu trúc của câu thơ cũng theo kiểu suy luận: Đất nước là ... nêu lên một tiền đề. Từ tiền đề ấy, phải biết.../ phải biết... để làm nên ... Câu thơ giàu chất duy lý nhưng không lên gân mà trở thành lời nhắn nhủ tha thiết. Ở đây có những từ tượng trưng rất đáng chú ý: máu xương, gắn bó, san sẻ, hoá thân, dáng hình, muôn đời. Sau rất nhiều suy nghĩ cụ thể về đất nước, đến đây nhà thơ khẳng định Đất nước là máu xương của mình. Máu xương là sự sống. Rất ít trường hợp người ta ví một điều gì đó với máu xương, bởi nó có ý nghĩa biểu trưng cho sự thiêng liêng. Đất nước là máu xương có nghĩa là đất nước tồn tại như một sự sống và để có sự sống ấy hẳn phải có rất nhiều hi sinh. Quả đúng như vậy, biết bao con người, bao thế hệ đã ngã xuống cho sự sống còn của đất nước. Vì thế, mỗi một con người phải biết gắn bó và san sẻ. Gắn bó là yêu thương, quan hệ mật thiết với nhau. Từ gắn bó ấy mới có thể san sẻ, san sẻ trách nhiệm, san sẻ niềm vui, niềm hạnh phúc cho nhau. Đất nước vĩ đại nhưng đất nước là một thực thể sống. Thực thể ấy không phải là sự tập hợp của những cá nhân rời rạc mà là một cộng đồng. Hoá thân cũng có nghĩa là dâng hiến. Thời bình, người ta dâng hiến sức lực, mồ hôi cho tổ quốc. Thời chiến, người ta dâng hiến cả sự sống của mình. Sự dâng hiến ấy, theo suy ngẫm của nhà thơ, là cuộc hoá thân. Bóng dáng mỗi người đã làm nên bóng dáng quê hương xứ sở, đất nước. Không có sự hoá thân kia làm sao đất nước trường tồn, làm sao có được đất nước muôn đời!

Những câu thơ in đậm chất duy lý (khá chặt chẽ, logic) cất lên như tiếng gọi của trái tim, vì thế nó thiết tha, thúc giục lòng người.

III. KẾT LUẬN

Đoạn thơ trên là một đoạn thơ hay trong bài Đất nước. Nhà thơ đã thể hiện những suy nghĩ mới mẻ của mình về đất nước bằng một giọng trữ tình, ngọt ngào. Câu chuyện về đất nước đối với mỗi người luôn là câu chuyện của trái tim, vừa thiêng liêng, cao cả, cũng vừa gắn bó, thân thiết. Từ suy nghĩ và tình cảm ấy, khi đối diện với kẻ thù của dân tộc, hẳn người ta phải biết làm gì cho Tổ quốc, giang sơn.

Ngày nay, đất nước đã sạch bóng quân thù. Nhưng trách nhiệm của mỗi công dân đối với đất nước vẫn rất cần đặt ra thường xuyên, bởi đó là câu chuyện không bao giờ cũ.
Về Đầu Trang Go down
https://xamlap.forumvi.com
Sponsored content





Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm)   Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm) I_icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm)
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Đất Nước ( Nguyễn Đình Thi)
» Nước mắt
» Nước Mắt Thiên Thần - Ngô Thanh Vân
» Mưa và những giọt nước mắt buồn..!
» Em trong mắt tôi-Nguyễn Đức Cường

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Springflavor.9forum.biz :: Thư viện kiến thức :: Văn :: Văn mẫu-
Chuyển đến