Hát vang rằng em iu anh |
|
| Tây Tiến | |
| | Tác giả | Thông điệp |
---|
spring_flavor Admin
Tổng số bài gửi : 367 Age : 33 Registration date : 04/01/2009
| Tiêu đề: Tây Tiến Sat Jan 10, 2009 2:39 pm | |
| Vẻ đẹp của hai hình tượng người lính thời kì kháng chiến chống pháp trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng và “Đồng chí” của Chính Hữu Người lính là hình tượng trung tâm trong văn học kháng chiến. Ở mỗi thời kì lịch sử của mỗi cuộc chiến tranh, người lính trong đời sống thực tế cũng như trong thơ ca đều có những nét khác nhau. Đầu cuộc kháng chiến chống Pháp có hai loại người lính: một là người lính xuất thân từ nông dân như trong bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Cá, nước” của Tố Hữu, “Đồng chí” của Chính Hữu; hai là người lính xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản thành thị (hồi đó có phong trào xếp bút nghiên lên đường tranh đấu) như “Tây tiến” của Quang Dũng. Cả hai đều cùng chung lí tưởng yêu nước giết giặc, cùng thể hiện tinh thần xả thân vì Tổ quốc, vì nhân dân.
Người lính trong bài thơ “Tây tiến” được xây dựng bằng cảm hứng lãng mạn. Bút pháp lãng mạn thường thế hiện bằng cái phi thường. Khung cảnh hoạt động của người lính là khung cảnh phi thường:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Những độ cao, những vực thẳm, những heo hút chỉ tăng vẻ hào hùng cho người lính chứ không đe doạ người lính. Thiên nhiên còn ẩn chứa cả những bí mật, những hiểm nguy:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường Hịch cọp trêu người”
Hình tượng người lính cũng thật là phi thường. Người lính Tây Tiến gần với người hiệp sĩ vì nghĩa lớn, nhưng họ là những con người bằng xương bằng thịt đang chiến đấu gian khổ trong những ngày đầu kháng chiến.
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Diễn tả những gian khổ của người lính ở rừng rất chân thật, thiếu ăn, thiếu thuốc sốt rét… đến nỗi rụng hết tóc. Nhưng bút pháp lãng mạn không làm yếu người lính mà càng oai hùng đầy tự hào.
Cái chết cũng bi hùng, đượm tinh thần hi sinh của hiệp sĩ:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Người lính Tây Tiến mang theo nét hào hoa của những thanh niên Hà Nội đi chiến đâu thời bấy giờ - trong đó có Quang Dũng. Tình quân dân cũng nhuốm màu sắc lãng mạn:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”
Con người như lạc vào thiên nhiên mơ mộng, lạc vào xứ lạ, phương xa thường thấy trong cảm hứng lãng mạn.
Giấc mơ của người lính cũng là giấc mơ của những thanh niên Hà Nội tràn đầy tinh thần lãng mạn:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Hình tượng người lính trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu đựơc tác giả viết với bút pháp hiện thực. Người lính hiện lên với tất cả các dáng vẻ chất phác lam lũ của người nông dân mặc áo lính. Họ là người của tứ xứ, của những làng quê nghèo đói gặp nhau trong lí tưởng cứu nước:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Từ tình yêu giai cấp, họ đã nâng lên thành tình đồng chí, một tình cảm mới mẻ:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!”
Tấm chăn đắp lại thì tâm tư họ lại mở ra, họ hiểu rõ hoàn cảnh của nhau:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”
Ở ngoài chiến trường mà nghe rõ gió lung lay từng gốc cột của ngôi nhà mình, người lính thương yêu gia đình, quê hương biết bao nhiêu, nhưng trước hết họ phải vì nghĩa lớn. Về tinh thần “hiệp sĩ” này họ lại rất gần với người lính Tây Tiến.
Họ sẵn sàng chịu đựng những gian khổ tột cùng của cuộc kháng chiến:
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài miếng vá
Nụ cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Tình đồng chí đã nuôi dưỡng tâm hồn của những người lính và họ đã biến nó thành sức mạnh chiến đấu.
Bút pháp miêu tả cũng khác nhau. Một chi tiết trong thơ: Chiếc áo Quang Dũng nói là “áo bào” có tính chất “hiệp sĩ” còn Chính Hữu nói “áo anh rách vai” rất hiện thực.
Từ tình thương yêu giai cấp, họ đã cùng vươn lên đỉnh cao của tình đồng chí:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
Chung nhau một cái chăn là một cặp đồng chí, “áo anh rách vai”, “quần tôi có vài miếng vá” là một cặp đồng chí. Đêm nay giữa rừng hoang sương muối “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới” là một cặp đồng chí. Lạ thay, “súng” và “trăng” cũng là một cặp đồng chí:
“Đầu súng trăng treo”
Cặp “đồng chí” này nói về cặp “đồng chí” kia, nói đựơc cái cụ thể và gợi đến vô cùng. “Súng” và “trăng”, gần và xa, “Tôi với anh hai người xa lạ, Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”. “Súng” và “trăng” cứng rắn và dịu hiền. “Súng” và “trăng”, chiến sĩ và thi sĩ. “Súng” và “trăng” là biểu hiện cao cả của tình đồng chí.
Sự kết hợp yếu tố hiện thực tươi rói với tinh thần lãng mạn cách mạng là vẻ đẹp riêng của hình tượng người lính trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu. | |
| | | spring_flavor Admin
Tổng số bài gửi : 367 Age : 33 Registration date : 04/01/2009
| Tiêu đề: Re: Tây Tiến Sat Jan 10, 2009 2:40 pm | |
| Phân tích tác phẩm Tây Tiến Quang Dũng thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp như Nguyễn Đình Thi , Hoàng Trung Thông , Trần Hữu Thung , Hồng Nguyên , Trần Mai Ninh , Chính Hữu …Quang Dũng nổi tiếng với hai bài thơ : “ Tây Tiến “ và “ Đôi mắt người Sơn Tây “ . Bài thơ “Tây Tiến “ được sáng tác vào năm 1948 khi ông rời đơn vị Tây Tiến và nhớ về kỉ niệm gắn bó một thời với Tây Tiến . Đoàn quân Tây Tiến bao gồm hầu hết những thanh niên Hà Nội hoạt động ở một địa bàn rộng lớn ở vùng núi biên giới Việt – Lào . Hào hoa mà anh dũng .
Đoạn đầu của bài thơ hồi tưởng lại những kỉ niệm của một thời chinh chiến , những cuộc hành quân gian khổ với thiên nhiên vừa khắc nghiệt lại vừa hùng vĩ , thơ mộng :
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao , ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Quang Dũng chịu ảnh hưởng sâu đậm nhạc điệu của thơ cổ điển . Có thể nói nhà thơ Quang Dũng , hiện thực là hiện thực kháng chiến ( chống Pháp ) được phô diễn bằng một tâm hồn lãng mạn và âm điệu cổ điển . Qua hai câu thơ mở đầu của bài “ Tây Tiến “ ta nắm bắt được hồn thơ Quang Dũng :
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Âm điệu của câu thơ thất ngôn bát cú như từ thời Lí Bạch . Tình cảm thì dào dạt như các nhà thơ lãng mạn thời Thơ mới . Có điều là trong dòng thơ hoài niệm ấy đã xuất hiện một cái tên lịch sử . Tây Tiến ! Mà đã nói đến Tây Tiến là phải nói đến sông Mã , con sông hùng vĩ đã chứng kiến những vui buồn của cuộc đời người chiến binh , là phải nói đến rừng núi với những chặng đường hành quân cheo leo bên núi cao , bên vực thẳm , đi trong sương mù , trong hương hoa . Nỗi nhớ dâng trào như nỗi nhớ của các nhà thơ lãng mạn. Đây là câu thơ của Xuân Diệu :
“Tương tư nâng lòng lên chơi vơi “
Còn đây là câu thơ của Quang Dũng :
“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi “
Có điều là một đằng thì nhớ người yêu , một đằng thì nhớ những kỉ niệm kháng chiến .
Những kỉ niệm về Tây Tiến , về kháng chiến cứ đậm dần lên trong sự hài hoà giữa bút pháp lãng mạn và hiện thực của thơ Quang Dũng . Những địa danh miền sơn cước như Sài Khao , Mường Lát gợi bao cảm xúc mới lạ. Những “ sương “ , “ hoa “ từng hiện diện với thi nhân , với tình yêu thì nay hiện diện với đoàn quân , gian khổ mệt mỏi đấy nhưng không thiếu những giây phút lãng mạn . Thủ pháp đối lập được Quang Dũng triệt để sử dụng . “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi “ gian khổ biết bao! “ Mường Lát hoa về trong đêm hơi “ thi vị biết bao ! Tưởng chừng như thiên nhiên ban thưởng cho người lính một chút hương hoa để có sức mạnh mà vượt qua đèo dốc .
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Những thanh trắc ( dốc , khúc , khuỷu , thẳm ) tức ngược miêu tả được thế núi hiểm trở . Và hay nhất là miêu tả chiều sâu thăm thẳm để tả chiều cao của “ dốc lên khúc khuỷu “ .Cao đến nỗi người lính có cảm giác mình ngự trên mây “ heo hút cồn mây “ và “ súng ngửi trời “ . Cách nhân hoá thú vị cũng là để nói cách đo chiều cao riêng của những người lính .
Ta lại thấy một ông Lí Bạch trong thơ Quang Dũng . Cảm hứng lãng mạn tô đậm cái phi thường . Câu thơ “ Ngàn thước lên cao , ngàn thước xuống “ có khác gì câu thơ của Lí Bạch “ Nước bay thẳng xuống ba ngàn thước “ trong bài thơ “ Xa ngắm thác núi Lư “ . Ta cũng lại nghe âm điệu của Tản Đà trong giai điệu buông thả mê li của Quang Dũng :
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
với “Giang hồ mê chơi trên quê hương” của Tản Đà
Mơ mộng đó mà gian khổ cũng đó . Qua những chặng đường hành quân, vượt qua đèo cao lũng sâu , người lính sao tránh khỏi những giây phút mệt mỏi . Quang Dũng không tránh né thực tế khắc nghiệt của người lính trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp :
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.
Thật là bi tráng ! Hình ảnh người lính “ Gục lên súng mũ bỏ quên đời “ cho ta thấm thía thêm những nỗi gian lao , vất vả , hi sinh của người lính Tây Tiến . Hình ảnh núi rừng hoang vu , huyền bí tăng thêm chất bi tráng . Thiên nhiên đổi thay theo sắc màu của thời gian . Những nét lạ , những chi tiết rùng rợn càng tăng sức hấp dẫn của bút pháp lãng mạn . Âm thanh dữ dội của tiếng thác buổi chiều hoà điệu với âm thanh rùng rợn của tiếng “ cọp trêu người “ đêm đêm thành một bản hoà tấu vang động cả núi rừng . Rồi tất cả lại trở về dịu êm với những kỉ niệm của con người và bản làng thân thương :
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Sợi khói ấm áp giữa núi rừng hoang vu , đó là chất thơ của đời sống chiến sĩ làm sao mà không nhớ ? Kỉ niệm cứ như trôi trong mộng : “ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi “ . Chữ của thơ thật lạ , có những chữ đã cũ mèm mà được đặt vào đúng văn cảnh thì lại dậy lên ý lạ . Chữ “ em “ thì có gì là mới , vậy mà thay vào đó bất cứ chữ nào khác thì câu thơ cũng mất hết linh hồn . Nói kiểu Pautôpxki là Quang Dũng đã trả lại cho chữ “ em “ cái trinh bạch ban đầu . Hương nếp hay là hương em đã làm bâng khuâng cả núi rừng , bâng khuâng cả lòng người ?
Nhà thơ nhớ lại một đêm liên hoan lạ lùng giữa rừng biên cương :
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ “
Bút pháp lãng mạn của Quang Dũng lại được dịp miêu tả những nét lạ : y phục lạ ( xiêm áo ) , nhạc cụ lạ ( khèn ) , âm điệu lạ ( man điệu ) , dáng vẻ lạ ( nàng e ấp ) . Tình quân dân nơi rừng núi xa xôi càng thêm sức mạnh cho người lính Tây Tiến .
Cùng với dòng hồi tưởng đó , tác giả nhớ lại hình ảnh người lính Tây Tiến , những hình ảnh độc đáo không thể nào phai nhoà :
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm “
“ Đoàn binh không mọc tóc “ quả là kì dị ! Thời đó , đoàn quân Tây Tiến hoạt động trong rừng núi phía Tây , bệnh sốt rét hoành hành . Tóc rụng đến nỗi không mọc lên được . Da xanh bủng như màu lá rừng . Tác giả miêu tả bằng cách đối lập giữa cái bên ngoài và cái bên trong . Bên ngoài người lính thì da xanh bủng ốm yếu , nhưng tinh thần thì vững vàng . Khí phách của người lính Tây Tiến chẳng những lấn át cả bệnh tật ốm yếu mà còn “ dữ oai hùm “ làm khiếp sợ kẻ thù . Tinh thần của người lính Tây Tiến thật là mãnh liệt . Mãnh liệt cả trong “ mộng “ , mãnh liệt cả trong “ mơ “ .
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Hình ảnh “ mắt trừng “ thể hiện ý chí quyết tâm của người lính Tây Tiến trong nhiệm vụ bảo vệ biên cương , nghĩa vụ quốc tế của mình . Trên kia ta đã từng gặp hình ảnh “ mộng “ ấy: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ“ . Nhưng tình cảm , tâm tưởng người lính lại hướng về Hà Nội , quê hương thân yêu của hầu hết binh đoàn Tây Tiến :
“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm “
Hà Nội đẹp nhất là Hồ Tây và thiếu nữ . Những chàng trai Hà Nội chưa trắng nợ anh hùng ra đi chinh chiến làm sao không mang theo trong hành trang của mình hình bóng của một “ dáng kiều thơm “ nào đó , hoặc hình bóng của người thân yêu? Một chút lãng mạn như vậy đủ nuôi dưỡng tinh thần của người lính Tây Tiến trong hoàn cảnh chiến đấu gian khổ , hi sinh . Tứ thơ mộng mơ này cũng nằm trong cấu trúc chung của bài thơ “Tây Tiến“ là ngược – xuôi : con người , ý chí , hành động thì ngược về hướng tây , nhưng tình cảm thì lưu luyến xuôi về với quê hương thân yêu :
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa “
Liền với tứ thơ mộng mơ ấy là hình ảnh hi sinh cao quý của những người lính Tây Tiến . Từ tinh thần lãng mạn chuyển sang không khí bi tráng:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành “
Lần nữa ta lại thấy Quang Dũng không tránh né những chết chóc bi thương . Người lính Tây Tiến chiến đấu ở một miền núi rừng biên cương chống kẻ thù xâm lược làm sao tránh khỏi sự tổn thất về sinh mạng :
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ “
Câu thơ chỉ có từ “ rải rác “ là thuần Việt , còn lại là từ Hán Việt cổ kính , gợi không khí thiêng liêng , đượm chút ngậm ngùi . Đến câu thơ tiếp theo , tác giả hoá giải được tình cảm ngậm ngùi đó : “ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh “ .
“ Đời xanh “ đẹp biết bao! Còn gì quý bằng tuổi trẻ , vậy mà người lính Tây Tiến “ chẳng tiếc “ , cho nên họ chấp nhận tất cả . Tự vệ thành Hà Nội đã nêu cao lời thề “ Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh “ trong cuộc chiến đấu bảo vệ Thủ đô . Những người con của Thủ đô ở biên cương cũng có tinh thần “ hiệp sĩ “ đó . Có lẽ gọi những chàng trai “ chẳng tiếc đời xanh “ này là “ hiệp sĩ “ cách mạng , như những người lính trong “ Đồng chí “ của Chính Hữu , trong “ Nhớ “ của Hồng Nguyên . Sự hi sinh của họ thật là cảm động :
“Áo bào thay chiếu anh về đất “
Người lính Tây Tiến thời đó hết sức thiếu thốn . Theo Trần Lê Văn thì đồng bào thấy các chiến sĩ Tây Tiến rét đã cho chiếc áo khoác thay cho “ áo bào “ . Khi chết , đồng đội dùng chiếu bó lại để chôn vì không có quan tài . Câu thơ đó có một từ rất xứng với sự hi sinh của người lính là từ “ đất “. “Anh về đất “ là về với non sông đất nước , về với sự trường tồn , vĩnh hằng. Âm nhạc của thiên nhiên , non nước tấu lên đưa anh về nơi an nghỉ cuối cùng :
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành “
Cái chết của những người lính Tây Tiến nơi biên cương chẳng những làm xúc động sâu xa những chiến sĩ đồng đội mà còn động cả lòng trời đất . “ Sông Mã gầm lên “ đau đớn , tiếc thương . Khúc nhạc bi tráng hợp với sự hi sinh cao quý của những “ hiệp sĩ “ Tây Tiến .
Quang Dũng đi kháng chiến , đến đoàn quân Tây Tiến với tư cách là một trí thức có tâm hồn nghệ sĩ . Khi đặt bút làm thơ thì đã có ông Lí ông Đỗ ngự trong lòng . Âm nhạc đầy cám dỗ của nhà thơ Việt Nam hiện đâi như Tản Đà ( nhà thơ cùng quê hương với ông ) , Thế Lữ , Xuân Diệu cũng đã dội vang trong lòng ông . Các nhà thơ cổ kim đã bồi đắp trong hồn thơ kháng chiến mới mẻ của ông . Bằng nghệ thuật điêu luyện , Quang Dũng đã khắc hoạ chân dung người lính Tây Tiến , hình hài thì kì dị , độc đáo , chân dung tinh thần thì cao quý . Xuc cảm của nhà thơ được nuôi dưỡng bằng âm nhạc vừa cổ kính vừa hiện đại .
Những trái tim “ hiệp sĩ “ Tây Tiến nằm lại rải rác ở biên cương chắc sẽ cảm thấy êm ái khi nghe thơ Quang Dũng . Bằng hội hoạ và âm nhạc , tượng đài của lòng dũng cảm đã được dựng lên trong thơ “ Tây Tiến “ – vĩnh hằng. | |
| | | spring_flavor Admin
Tổng số bài gửi : 367 Age : 33 Registration date : 04/01/2009
| Tiêu đề: Re: Tây Tiến Sat Jan 10, 2009 2:42 pm | |
| Hãy bình luận ngắn về tên bài Tây tiến Tây ở đây là phía tây của địa hình đất nước Việt Nam ở vùng miền Bắc, là địa danh Tây Bắc lừng danh với chiến thắng Điện Biên là nơi gặt hái những tác phẩm văn chương nổi tiếng. Đây là một không gian hùng hiểm của núi rừng, có những đỉnh đèo cao chót vót, xuyên tầng mây, có những mái nhà bồng bềnh trong làn mưa trắng xóa, có những suối lũ có cọp hùm ban đêm. Địa danh ngỡ như hoang sơ này đã in dấu một đoàn quân phần lớn là thanh niên trí thức… Hà Thành khoác kiểu áo lính dấn thân một cách tình nguyện vui vẻ vào con đường trường chinh gai góc chỉ vì một mục đích là quăng máu xương để giữ vững lời thề độc lập mà mình đã tuyên thệ trên quảng trường Ba Đình ngày 2 tháng 9 năm ấy. Tây Tiến nghĩa là tiến về phía tây xác định một con đường ra đi không hẹn ngày trở lại, xác định một tư tưởng “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Đoàn quân ấy đã được mang cái dáng Tây Tiến đầy hào hùng và cũng đầy bi tráng. Người nhớ lại nó khi đã xa đoàn quân, khi đã ở đất đồng bằng vẫn cứ thấy rằng đã có một thời gắn bó với Tây Tiến thì dù chết, dù sống miền đất phía tây ấy vẫn là nơi đất đã hóa tâm hồn: “Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy, Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. | |
| | | spring_flavor Admin
Tổng số bài gửi : 367 Age : 33 Registration date : 04/01/2009
| Tiêu đề: Re: Tây Tiến Sat Jan 10, 2009 2:45 pm | |
| Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc ngày xanh áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Rừng trong khi ấy chuyển phong vân Sắp sửa xôn xao cuộc họp quần Vời vợi núi cao kêu bạn đến Thành đô trai trẻ cũng dời chân. Ta quên sao đựơc những ngày cả nước lên đường chiến đấu. Những ngày tháng tuy chịu nhiều mất mát hi sinh nhưng thật hào hùng! Trong những chàng trai ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc có trai tim nhiệt tình của tầng lớp thnah niên trí thức Hà Nội. Hình ảnh người chiến sĩ “lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa” ấy được thể hiện đậm nét trong đoạn thơ sau của Tây Tiến: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc ngày xanh áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành. (Quang Dũng) Đoạn thơ vừa thể hiện vẻ đẹp lãng mạn hào hoa phong nhã của người lính Tây Tiến ,vừa mang đậm tính bi tráng. ở những khổ thơ trước, Quang Dũng vẽ nên trước mắt chúng ta bức tranh sinh động của núi rừng hiểm trở, dữ dội và những bản làng hiền hoà ẩn hiện trong sương núi. Ai đã từng đọc qua bài thơ không thể nào quên được hình ảnh phong cảnh nơi đây và càng không thể quên được hình ảnh người lính với bao ấn tượng đẹp đẽ, sâu sắc. Hình tưọng người lính được tô đậm với bút pháp lãng mạn, phi thường. Quang Dũng đã sử dụng bút pháp đối lập giữa hình thức và tinh thần để làm nổi bật lên bức tượng đài về đoàn quân Tây Tiến. Những người lính hiện ra trước mắt ta thật lẫm liệt và dữ tợn. Họ là những đứa con của núi rừng cheo leo, hiểm trở và của ghập ghềnh thác lũ…. Họ như loài sư tử dũng mãnh, oai vệ, sẵn sàng chiến đấu và tiêu diệt khi kẻ thù xâm lược giang sơn. “Đoàn binh không mọc tóc”, “quân xanh màu lá dữ oai hùm” và đôi mắt trừng trưùng đầy vẻ oán hận, căm thù gợi cho ta nhớ lại hình ảnh chàng Kinh Kha ngày xưa. Qua cách miêu tả của Quang Dũng, đoàn quân Tây Tiến xuất hiện như được sinh ra cùng một lứa, cùng một mẹ. Họ mang đặc điểm dường như bẩm sinh rất giống nhau. Họ có cùng ý chí, cùng nhân dạng và phẩm chất cao đẹp của người anh hùng. Miêu tả nét hùng dũng, oai phong của người lính, Quang Dũng vẫn không che giấu một thực tế nghiệt ngã, đau lòng. Những cơn sốt rét rừng đã cướp đi của họ mái tóc xanh bồng bềnh của tuổi trẻ. Về gian khổ, thiếu thốn đã biến những thân hình cường tráng ngày xưa, giờ trở nên tiều tuỵ, xanh xao, hốc hác. Tuy nghiên ,trong cái hình nhân ốm yếu, nhợt nhạt ấy, ta vẫn thấy được vẻ hùng dũng, oai phong và trái tim lãng mạn, giàu tình cảm của họ. Nguyễn Đình Thi cũng đã từng tâm sự: Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu. Cùng gần tâm trạng đó, một lần khác nhà thơ đã viết: Anh yêu em như yêu đất nước Vất vả đau thương tươi thắm vô ngàn Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước Mỗi bước anh nằm, mỗi miếng anh ăn. Người lính của Quang Dũng cũng thế, học cũng nhớ về hình ảnh của người con gái. Nhưng có thể đây không phải là người con gái yếu mà là nét đẹp đặc trưng của người Hà Nội phồn hoa. Nối nhớ không được diễn tả trực tiếp mà nó được thể hiện qua đôi mắt trừng vì những đêm thức trắng trong giấc mơ ngọt ngào… Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Đó chính là nét đẹp riêng của người lính trí thức mà anh “bộ đội Cụ Hồ” trong bài thơ của Tố Hữu không có được. Nếu người nông dân khi ra đi kháng chiến nhớ về “giếng nước gốc đa”, “nước mặn đồng chua” và người vợ “mòn chân bên cối gạo canh khuya” thì người lính Tây Tiến lại mơ về một “dáng kiều thơm”. Hình ảnh người con gái hiện lên thật thướt tha, kiều diễm và mong manh. Cái “dáng” ấy thật huyền ảo, mơ hồ, chập chờn, thoát ẩn thoát hiện như nàng tố nga. Người con gái ấy đại diện cho nét đẹp của quê hương, của tổ quốc. Nhớ dáng kiều là nhớ về dáng hình quê hương xứ sở. Người lính ra đi, cầm súng chiến đấu quên mình để bảo vệ nét đẹp trong sáng và tinh khôi ấy của quê hương. Câu thơ vừa thể hiện nhiệt tình sôi nổi của tuổi trẻ, vừa diễn tả một tìnhc ảm yêu nước tha thiết sâu lắng. Quả thật, người lình biết căm thù nhưng cũng rất biết yêu thương. Cái yêu thương đầy lãng mạn của tuổi trẻ Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc ngày xanh. Hình tượng “người ra đi đầu không ngoảnh lại, sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” gây biết bao xúc động trong lòng người đọc! Người chiến sĩ chiến đấu bất cần đời mình một ra đi là đã chấp nhận hi sinh, bằng lòng với cái chết. Ra đi chỉ nghĩ đến vận mệnh đất nước mà không màng đến tương lai đời mình. Những ngôi “mồ viễn xứ”kia rồi sẽ ra sao? Ai sẽ là người thắp lên cho họ những nén nhang cho hương hồn họ được siêu thoát? Những ngôI mộ không tên. Những cái chết vô danh. Thương sao người mẹ già còm cõi ngày ngày trông ngóng tin con, mái tóc đã bạc màu theo năm tháng nhưng chẳng thấy bóng con về. Bấm tay tính buổi anh đi Mẹ thường vẫn nhắc biết khi nào về. Sẽ mãi mãi và mãi mãi không có ngày: Mẹ già bịn rịn áo nâu Vui đàn con ở rừng sâu mới về! Câu thơ của Quang Dũng gợi xiết bao nỗi bi thương. Thương cho người chiến sĩ bỏ quên lại cuộc đời khi tuổi hãy còn xanh! Thương cho người mẹ già suốt đời quằn vai gánh nặng vất vả nay phảI gánh thêm nỗi đau mất con!... Nhưng cái không khí ảm đạm, thê lương không huỷ diệt đi tính hùng tráng của bài thơ. “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” thể hiện dũng khí mạnh mẽ của người lính Tây Tiến. Họ bất chấp mọi gian khổ, hi sinh, bất chấp cái chết để ra đi và chiến đấu một cách kiêu hùng. Bức tượng đài về những người chiến sĩ bỗng trở nên sáng rực rỡ, lẫm liệt, oai phong đến lại thường! áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Anh đã nhường lại manh chiếu nghĩa tình để sưởi ấm đồng đội trong cơn giá rét. Thân thể lạnh vùi trong lòng đất sâu nhưng có lẽ, anh không cảm thấy cô đơn, lạnh lẽo vì bên anh có tình đồng đội chan chứa, mặn mà. Đã có sông Mã đưa hương hồn anh về với quê hương đất mẹ. Sông Mã như thay cho tiếng cầu kinh, thay cho tiếng súng tiễn đưa anh về nơi an nghỉ cuối cùng. Cái chết của người línhTây Tiến tưởng đã êm xuôi, tưởng đã trôi vào dĩ vãng theo năm tháng! Nhưng không, sông Mã ngày ngày vẫn “gầm” lên đầy uất hận, nghẹn ngào, Núi rừng Tây Tiến và con sông ấy ngàn năm sẽ khắc ghi mãi bóng hình người đã ngã xuống… Nhớ đêm ra đi đất trời bốc lửa Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa. (Chính Hữu) Một thời đại chiến tranh khói lửa, gian lao, thử thách, hi sinh, vất vả và cũng thật oai hùng đã được Quang Dũng dựng lại qua bài thơ Tây Tiến. Đặc biệt, nhà thơ đã thành công trong việc tác nên những bức tượng đài về người lính Tây Tiến bằng những đường nét cụ thể và tiêu biểu từ hình dáng đến tâm hồn. Bức tượng đài ấy sẽ đứng vững chãi, hiên ngang giữa tâm hồn những người yêu thơ thế hệ hôm nay và mai sau. | |
| | | spring_flavor Admin
Tổng số bài gửi : 367 Age : 33 Registration date : 04/01/2009
| Tiêu đề: Re: Tây Tiến Sat Jan 10, 2009 2:47 pm | |
| Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây,súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời ! Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi. Lời khẳng định của Chủ Tịch Hồ Chí Minh : " văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận,anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy " quả không sai !
Các nhà văn,nhà thơ đã cống hiến hết mình cho Cách Mạng bằng những tác phẩm được viết bởi không khí thời đại , hơi lửa thời sự của đời sống chiến trường.Rất nhiều tác phẩm của nhiều tác giả nối gót nhau ra đời như Đồng chí ( Chính Hữu) , Bên kia Sông Đuống ( Hoàng Cầm ) , Nhận đường ( Nguyễn Đình Thi )...Ấn tượng nhất là tác phẩm " Tây Tiến "--tác phẩm gắn liền với tên tuổi của Quang Dũng_một nghệ sĩ đa tài với hồn thơ trung hậu , yêu quê hương , đất nước . Tây Tiến là một đơn vị quận đội , thành lập năm 1947 có nhiệm vụ cao cả là bảo vệ biên giới Việt - Lào . Và Quang Dũng đã từng làm đại đội trưởng của đoàn quân này,đặc biệt hơn nữa-cái nét riêng của đoàn quân là hầu hết các chiến sĩ đều là những thanh niên tri thức Hà Nội ! Họ còn rất trẻ, dù cuộc sống bom đạn có hiểm nguy thiếu thốn nhưng lúc nào họ cũng mang một tâm hồn lạc quan và yêu đời . Bài thơ được viết lên bằng một nỗi nhớ da diết của Quang Dũng khi nhớ về đoàn quân Tây Tiến . Tất cả được thể hiện rõ nét nhất ở khổ thơ đầu của bài thơ...
Mở đầu bài thơ là hình ảnh con Sông Mã :
" Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi , nhớ chơi vơi "
Hình ảnh Sông Mã là hình ảnh khơi gợi kỉ niệm trong lòng tác giả , nó là dòng sông mang một âm hưởng chủ đạo xuyên suốt bài thơ . Con Sông Mã là con sông vô cùng gắn bó gần gũi và có nhiều kỉ niệm với đoàn binh Tây Tiến . Đã " xa rồi " đó là một sự thật , với tác giả nó chỉ còn là một dòng hoài niệm , nên nỗi nhớ không thể nào nguôi ngoai . Tiếng gọi "Tây Tiến ơi " được bật lên từ đáy lòng , từ sự thân thương . Từ cảm thán " ơi ! " bắt vần với từ láy " chơi vơi " tạo lên âm hưởng câu thơ sâu lắng , bồi hồi , lan rộng...nó mở ra trạng thái của nỗi nhớ , một nỗi nhớ mênh mông da diết ! Biện pháp hoán dụ được tác giả sử dụng rất khéo léo và tài tình : " nhớ về rừng núi " . Quang Dung lấy sự gần gũi với Tây Tiến để tả nỗi nhớ_một nỗi nhớ chơi vơi , nỗi nhớ ấy mênh mông da diết . Điệp từ " nhớ " càng nhấn mạnh cái nỗi nhớ thăm thẳm da diết ấy , gợi lên một khoảng không gian , thời gian rộng lớn , đầy xa cách . Sau tiếng gọi ấy là bao hoài niệm về một thời đã xa lại trỗi dậy trong tiềm thức của tác giả rõ mồn một . Những câu thơ tiếp theo là những đoạn đường mà đoàn binh Tây Tiến đã đi qua :
" Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mừơng Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mấy súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao , ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi. "
Sài Khao , Mường Lát , Pha Luông , Mường Hịch và Mai Châu đều là những địa danh có thật , mỗi nơi đều có một đặc điểm khác nhau . Tất cả những địa danh đều tạo lên tính chân thực cụ thể , không những thế mà nó còn mang tầm khái quát cho cả vùng núi rừng Tây Bắc này !
Dường như Quang Dũng đã vẽ lên được một nét đẹp hùng vĩ , hoang sơ , có gì đấy dữ dội nhưng lại rất thơ mộng . Tác giả thật khéo léo khi giữa sự dữ dội của thiên nhiên lại len lỏi một tình người ấm áp thân thuộc_một tình người Tây Bắc giản dị nhưng thật nồng đượm :
" Mai Châu mùa em thơm nếp xôi "
Cả một đoàn quân anh dũng đang băng băng đi trong sương mù của núi rừng hiểm trở :
" Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi . "
Đâu chỉ có thế ! Đoàn quân còn biết bao khó khăn đang chờ đợi , con đường hành quân của các anh với :
" Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao , ngàn thước xuống. "
Một loạt các từ láy tượng hình được nhấn mạnh : " khúc khuỷu " , " heo hút " , " thăm thẳm " nó gợi ra cụ thể hai t : hình ảnh những con đừong gập ghềnh , gấp khúc và những vực sâu của sự hiểm trở đang hiển hiện trước mắt họ ! Nhất là ở câu : Ngàn thước lên cao , ngàn thước xuống " đặc tả rõ nét nhất con đường hành quân của họ . Với cách ngắt nhịp 4/3 , chia câu thơ thành hai vế đối nhau , làm gợi ra đoạn đường như gập làm đôi , dốc vút lên rồi lại đổ xuống . Hình ảnh " cồn mây " và " súng ngửi trời " gợi cho ta thấy được vị trí của chiến sĩ Tây Tiến đang đứng ở một độ cao nhất đinhj chìm trong sương và mây mù . Mũi súng của người chiến sĩ Tây Tiến được nhân hóa lên thành " súng ngửi trời " . Còn hiện lên bởi tiếng thác và sự xuất hiện của thú dữ :
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người "
sự dữ dội , bí ẩn của thiên nhiên Tây Bắc , tác giả sử dụng điệp từ chỉ thời gian : " chiều chiều " , " đêm đêm " để thể hiện sự thường xuyên , liên tục , chính nó làm tăng thêm vẻ hoang vu , hiểm trở nơi đây. Ngòi bút của tác giả đấy ,nhưng lại thể hiện rõ được tâm hồn của những người chiến sĩ . Lời văn của tác giả cũng như là suy nghĩ những người chiến sĩ . Hai câu thơ trên sử dụng biện fáp nghệ thuật nhân hóa , làm bật lên sự bí ẩn , nguy hiểm luôn rình rập họ !
Thiên nhiên thơ mộng nhưng thật là dữ dội ấy đã làm nền để nổi bật lên hình tượng chủ đạo vẫn là người chiến sĩ Tây Tiến : hiện lên với sự vất vả khó khăn trên con đường hành quân , nhưng họ là những con người rất tinh nghịch và lãng mạn . Khó khăn như vậy nhưng họ vẫn vui tươi với đời , rất hào hoa fong độ . Phải chăng cảm hứng yêu đời ấy làm giảm đi sự vất vả nơi họ ???
Các nhà văn trong thời kỳ kháng chiến không jống với phong cách của các nhà thơ mới là chỉ biết ca ngợi cái tốt đẹp mà lảng tránh đi sự thật .Chiến tranh mà ! Không chỉ ca ngợi hình tượng tâm hồn đẹp , thiên nhiên đày đọa con người mà họ còn đối mặt với sự thật _sự ra đi tất yếu trong chiến tranh của những người cầm súng xông pha trận mạc ấy :
" Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời "
Họ coi sự ra đi ấy như một giấc ngủ _ một giấc ngủ dài...Sự hi sinh , mất mát thật thanh thản , nhẹ nhàng.Chính điều đó đã gợi lên một nét lãng mạn , nó ko làm họ trở thành bi lụy ! Hiện thực chiến tranh là thế ! Xương máu đổi lấy tự do cho dân tộc , cho tâm hồn họ .
Hai câu thơ cuối của khổ thơ đamở ra một thế giới bình yên và hạnh phúc :
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi "
Thắm đượm tình người , ấm áp và bình yên vô cùng ! Đó là tình cảm dạt dào , là tiếng lòng của chiến sĩ Tây Tiến . Câu thơ mang đậm hương vị Tây Bắc . Phần I của tac phẩm "Tây Tiến " với một âm điệu vô cùng hoành tráng , hào hùng , lúc lại tha thiết nhẹ nhàng . Với những từ ngữ và hình ảnh cùng với sự phối thanh độc đáo đã làm cân bằng cân đối nhịp thơ ...
Quang Dũng thật tài hoa ! Phải ! Không tài hoa thì sao ông có thể làm lên một "Tây Tiến " hoành tráng như vậy được ? ! Phần I của " Tây Tiến " đã là âm hưởng của toàn bài thơ rồi .Thật ấn tượng với đoàn binh Tây Tiến , trải qua bao gian lao hi sinh sự mất mát nhưng lòng họ thì luôn yêu đời , luôn hướng về ánh hào quang thật đáng nể phục ! Chiến tranh đã qua đi , mấy ai quên công lao của những người lính đã ngã xuống ? Và đoàn binh Tây Tiến đây , cũng là một đoàn quân đã đóng góp cmột phần để xây dựng lên cuộc sống yên bình ngày hôm nay ... ! Đoạn thơ để lại dấu ấn đẹp đẽ trong lòng người đọc . Năm tháng cứ qua đi , nhưng "Tây Tiến " thì vẫn sống mãi trong lòng người đọc !!! | |
| | | spring_flavor Admin
Tổng số bài gửi : 367 Age : 33 Registration date : 04/01/2009
| Tiêu đề: Re: Tây Tiến Sat Jan 10, 2009 2:48 pm | |
| So sánh và phân tích những vẻ đẹp khác nhau của hai hình tượng người lính thời kì kháng chiến chống Pháp trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Đồng chí của Chính Hữu. A-Gợi ý cụ thể
1, Hai bài thơ Tây Tiến và Đồng Chí cùng ra đời năm 1948.
Hai tác giả Quang Dũng và Chính Hữu đều cùng trong quân ngũ( nhà thơ quân đội). Cả hai sáng tác cùng nói về vẻ đẹp của người chiến sĩ thời chống Pháp, tuy vậy có những nét khác nhau.
2, Người lính trong Tây Tiến. a) Xuất thân: Từ đô thành, chiến sĩ Tây Tiến (trong đó có tác giả) số đông ra đi từ Hà Nội thanh lịch. Họ là những thanh niên có học. Và vì vậy họ mới có lúc “Đêm mơ Hà Nội”. b) Bối cảnh hoạt động: Người lính Tây Tiến hiện ra trong khung cảnh rừng núi miền Tây Tổ quốc vừa hùng vĩ, vừa hiểm trở, hoang dại khác thường. Đó là những “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” , “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”; Đó là còn nơi “thác gầm thét, cọp trêu người” khiến cho có khi cả “đoàn quân mỏi” trong sương lấp, có lúc người lính “không bước nữa”… c) Đặc điểm: Chiến binh Tây Tiến mang vẻ đẹp khác thường. Hình tượng các anh nổi lên vừa hào hùng, dữ dội lại vừa hào hoa, mơ mộng. - Hào hùng, dữ dội trong dnág vẻ ngoại hình: Cả đoàn binh “không mọc tóc”, “dữ oai hùm” lại còn “mắt trừng “ nữa. Các anh trở nên khác lạ sau những cơn sốt rét rừng ác liệt, sau những cuộc hành quân “vượt cồn mây”, “súng ngửi trời”. Đầu không còn tóc, người xanh xao nhưng người lính vẫn rất oai phong, vẫn như mang cả hồn thiêng của rừng thẳm. - Hào hùng trong ý chí: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Các anh hiến dâng tuổi thanh xuân cho đất nước không ngại ngần, tiếc nuối. CáI chết rình rập và “rải rác biên cương mồ viễn xứ” cũng không cản bước ra chiến trường giữ vững vùng đất biên giới Việt Lào. - Hào hùng ngay trong cái chết: áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành.. Người chiến sĩ về với đất trong hoàn cảnh có thể nói là rất buồn. Theo tác giả cho biết thì đồng đội ông nãg xuống, ngay manh chiếu bó thân cũng không có, nhưng sự ra đi vĩnh viễn đó thật anh hùng. Con sông Mã thay lời núi sông cất lên lời ai điếu hùng tráng tiễn đưa người chiến sĩ. -Hào hoa, mơ mộng ở tâm hồn, lãng mạn: Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Tâm hồn phải hết sức hào hoa mới “gửi mộng qua biên giới” và mơ về dáng kiều thơm.Người chiến sĩ đẹp trong giấc mơ đep,mơ dáng kiều diễm,thanh lịch,quyến rũ của người phụ nữ thủ đô.Đối đầu với nhọc nhằn, chết chóc, anh vẫn không quên một dáng hình thanh thú, toả hương. Chính dáng hình này tiếp sức cho anh bộ đội đi tới. Ta chợt nhớ lại câu thơ của tác giả Nguyễn Đình Thi: Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu (Đất nước) Tóm lại, tái tạo vẻ đẹp người lính Tây tiến, nhà thơ đã sử dụng bút pháp vừa hiện thực vừa lãng mạn cách mạng. Chính cảm quan lãng mãn khiến tác giả chú ý đến vẻ đẹp khác thường của đồng đội.
3.Người lính trong Đồng chí: a) Xuất thân: Đó là những người nông dân mặc áo lính. Các anh ra đi từ những làng quê nghèo: Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá. b) Bối cảnh hoạt động: Các anh cầm súng chờ đợi giặc nơi rừng hoang sương muối. Cảnh ở đây không rõ nét hiểm trở,hoang vu như vùng núi người lính Tây tiến hiện diện ( với dốc,thác,nước lũ,cọp trêu người…) c) Đặc điểm: Ngừời chiến sĩ dưới ngòi bút Chính Hữu mang vẻ đẹp bình dị. Các anh hiện ra với dáng vẻ: -Chất phác: Nhớ về quê hương,các anh nhớ về gian nhà trống ,nhớ về giếng nước gốc đa rất đỗi quen thuộc. Còn người lính Tây Tiến nhớ quê hương là nhớ “dáng kiều thơm” có phần mĩ lệ, kiêu sa hơn. -Lam lũ: Trang phục của chiến sĩ trong Đồng chí có phần thiếu thốn.Hình ảnh thực của người nông dân mặc áo lính: áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày. Chính Hữu tả hiện thực rõ nét đến từng chi tiết. Quang Dũng cũng có nói đến những thiếu thốn,gian truân của đồng chí nhưng thơ ông hướng tới vẻ oai hùng của người lính. Cũng với việc tả căn bệnh sốt rét tác động đến người chiến sĩ, Chính Hữu tả thực: Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi. Còn Quang Dũng nghiêng về tả vẻ khác lạ,khác thường lãng mạn: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm. Như vậy bút pháp của Chính Hữu trong Đồng chí là búp pháp tả thực.Ông chú trọng vẻ đẹp của tình đồng chí – những người chung quân ngũ,chung lý tưởng chiến đấu. Còn Quang Dũng đã khái quát vẻ đẹp chung của người chiến sĩ Tây Tiến trên đường hành quân và hoạt động ở vùng biên giới xa xăm, nhiều hiểm trở. Nhìn chung lại, tuy hai hình tượng người lính này mang những vẻ đẹp khác nhau ( nông dân và trí thức, địa bàn hoạt động và quan hệ với nhân vật trữ tình….) nhưng làm hoàn chỉnh bức chân dung anh bộ đội Cụ Hồ trong buổi đầu tiến hành cuộc cách mạng kháng chiến chín năm chống Pháp. | |
| | | spring_flavor Admin
Tổng số bài gửi : 367 Age : 33 Registration date : 04/01/2009
| Tiêu đề: Re: Tây Tiến Sat Jan 10, 2009 2:49 pm | |
| Nhà thơ Anh Ngọc có viết về bài thơ Tây Tiến như sau:
… Hãy đến nỗi ta không khỏi ngạc nhiên mà nghĩ rằng: Tại sao trong những ngày đầu non nớt của nền thơ kháng chiến và cách mạng mà chúng ta lại có được một tác phẩm thơ tuyệt duyệt đến thế, kinh điển đến thế và cũng hiện đại đến thế?
Qua phân tích bài thơ Tây Tiến, Hãy cắt nghĩa sự ngạc nhiên trên. Phân tích đề: - Đề yêu cầu cắt nghĩa sự ngạc nhiên của nhà thơ Anh Ngọc đơi với bài Tây Tiến. Nỗi ngạc nhiên này cũng là một sự đánh gía: Tây Tiến – bài thơ tuyệt duyệt, kinh điển và hiện đại. Để cắt nghĩa đuợc, cần phải giải thích lý do và chứng minh bằng việc phân tích những giá trị của tác phẩm. - Khi đánh giá về Tây Tiến, nhà thơ Anh Ngọc đã đặt tác phẩm vào bối cảnh chung của nền thơ kháng chiến. Do đó, nguời viết phải có những kiến thức tối thiểu về văn học kháng chiến chống Pháp để so sánh, bình giá. - Tây Tiến là bài thơ hay của nền thơ kháng chiến, ra đời vào những năm đầu của nền văn học mới. Có thể xem đó là một đỉnh trên cái nền cái còn tương đối thấp (về mặt lượng nghệ thuật). Những giá trị của Tây Tiến không chỉ có thế. Văn học có quy luật riêng, khác với tự nhiên, xã hội, không cứ tác phẩm ra đời sau lại xuất xắc hơn tác phẩm truớc. Thep Anh Ngọc, giá trị của Tây Tiến là tuyệt duyệt, tức là một trường hợp duy nhất, không thay thế được. Cụ thể đó là một giá trị vừa mang tính cổ điển, vừa mang tính hiện đại. Bởi vậy, sau khi giải thích, phải chứng minh rõ các giá trị này. Dàn ý chi tiết: 1.Vị trí Tây Tiến trong nền thơ kháng chiến và thơ Việt Nam hiện đại: 1.1 Bối cảnh ra đời của Tây Tiến: - Vào những năm đầu của cuộc kháng chiến nhiều khó khăn, gian khổ, nhiều cái mới và lạ lẫm. - Các nhà thơ Mới đi theo kháng chiến đang hoặc vừa trải qua giai đoạn “nhận đường”. Họ có sáng tác nhưng còn ít, cảm xúc chưa bắt kịp với tư tưởng (Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên…). - Các nhà thơ trẻ, trưởng thành từ trong kháng chiến số lượng chưa nhiều, trào dâng cảm xúc mới, nhưng còn non yếu về mặt nghệ thuật. Do đó, thơ hay nhưng năm đầu của cuộc kháng chiến không nhiều, phần lớn mang đậm tính chất tuyên truyền. 1.2 Trường hợp Quang Dũng : - Mặc dù đã làm thơ từ trước năm 1945, nhưng chưa phải là nhà thơ Mới. - Con người Quang Dũng: một thanh niên trí thức Hà Nội, hào hoa, lãng mạn. - Quang Dũng là người có sự hoà nhập rất nhanh, rất mãnh liệt vào đời sống cách mạng và kháng chiến: tham gia Cách mạng ngày từ tháng tám 1945, gia nhập quân ngũ, tình nguyện vào binh đoàn Tây Tiến… Quang Dũng không phải là trường hợp cá biệt, nhưng chưa phải đã nhều, nhất là về tài năng, ơ những năm tháng ấy. 1.3 Bài thơ Tây Tiến Trước hết là tiếng hát trữ tình của một cá nhân – cá thể, nhưng cá nhân ấy đang hoà với dòng người trên những nẻo đuờng kháng chiến. Vì thế, bài thơ mang tính độc đáo của một tâm trạng riêng, vừa là nỗi niềm, tâm trạng của những con người trong một hoàn cảnh mới. Tất cả những hoàn cảnh chung và riêng đó đã tạo cho Tây Tiến có một vị trí riêng biệt, không thể thay thế, không thể lặp lại trong nền thơ Việt Nam. Tính chất không lặp lại, không thể thay thế của Tây Tiến biểu hiện tập trung ở hai giá trị (kinh điển, hiện đại) mà nhà thơ Anh Ngọc đã nêu. 2.Tây Tiến, bài thơ “kinh điển” 2.1 Hiểu từ “kinh điển” như thế nào? - Kinh điển là từ thường dùng để chỉ những sách vở do các bậc thánh hiền viết, hoặc sách vở ghi chép sự việc, luật lệ thời xưa. Cũng thường dùng để nói đến sách vở tôn giáo, hoặc là sách, tài liệu làm khuôn mẫu cho một học thuyết, một chủ trương. - Ở đây hiểu, là tác phẩm mẫu mực, có những giá trị vượt thời gian và đã tiếp thu đuợc yếu tố nghệ thuật của thơ ca dân tộc. 2.2 Tính kinh đển của Tây Tiến thể hiện ở những khía cạnh sau: - Mẫu mực trong việc khắc hoạ chân dung người lính Tây Tiến.Cùng với hình ảnh người chinh phụ, tráng sĩ trong thơ vă cổ (từ Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trãi, Đặng Thành Côn… đến Thâm Tâm, Trần Huyền Trân…), người lính Tây Tiến hiện lên lồng lộng, sang trọng, chất ngất hào khí một thời. - Mẫu mực trong thể hiện nội tâm: thương nhớ khôn nguôi, đau đớn đến tận cùng và ngợi ca hết lòng. - Mẫu mực trong những bút pháp nghệ thuật mang tính cổ điển: tả cảnh, tả tình, tả người đều gợi nhiều hơn tả, kiểu trong thơ có nhạc, có hoạ. - Mẫu mực trong việc sử dụng các hình thức nghệ thuật cổ điển của thơ ca trung đại: uớc lệ, tượng trưng, khoa trương; thể thơ; vần điệu. 3.Tây Tiến – bài thơ hiện đại 3.1.Hiểu từ “hiện đại” như thế nào? Từ hiện đại trong cách dùng của Anh Ngọc là những giá trị mới, của ngày hôm nay. 3.2. Tây Tiến - tiếng hát trữ tình của con người trong thờì đại mới. - Con người: Quang Dũng nói đến những con ngưòi tiêu biểu nhất trong hoàn cảnh lúc bấy giờ: người lính (Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc). - Thời đại: chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc (Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh). - Tâm trạng: Tâm trạng người lính với nhiều cung bậc, nhiều nỗi niềm, nhưng quan trọng nhất là sẵn sàng hy sinh vỉ Tổ Quốc. 3.3.Sự lạ hoá của những thước đo nghệ thuật cũ - Tây Tiến là bài thơ giàu chất sử thi, nhưng không phải là sử thi. - Tây Tiến là bài thơ được sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật cổ điển, nhưng không phải là thơ cổ. Nói cách khác, đó là hiện đại hoá những giá trị mang tính cổ điển. 4.Kết luận: - Tây Tiến là bài thơ hiện đại nhưng đạt được những giá trị cổ điển. - Tây Tiến là tâm trạng của Quang Dũng nhưng cũng là điệu tâm hồn của cả thế hệ ở vào những năm tháng hào hùng nhất của lịch sử. Sự kết hợp nhiều yếu tố ấy đã khiến Tây Tiến trở thành bài thơ tuyệt duyệt như nhà thơ Anh Ngọc đã từng ngạc nhiên và say mê. | |
| | | spring_flavor Admin
Tổng số bài gửi : 367 Age : 33 Registration date : 04/01/2009
| Tiêu đề: Re: Tây Tiến Sat Jan 10, 2009 2:50 pm | |
| Phân tích cảm hứng lãng mạn và tính chất bi tráng ở bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Phân tích đề: - Đề yêu cầu phân tích về một khía cạnh nội dung của bài thơ Tây Tiến: cảm hứng lãng mạn và tính chất bi tráng. - Để đáp ứng yêu cầu của đề, người viết cần hiểu rõ cá khái niệm: cảm hứng lãng mạn, bi tráng. Mặc dù bản thân chất “lãng mạn” luôn bao hàm chất “bi tráng”, nhưng cả hai không phải là một. Nói một cách dễ hiẻu, ở bài thơ Tây Tiến, tính chất bi tráng xuất phát từ cảm hứng lãng mạn của tác giả, là sự thêư hiện ở mức cao nhất và đẹp nhất của cảm hứng đó. Gợi ý làm bài: 1.Cảm hứng lãng mạn: - Lãng mạn là cảm hứng chủ đạo của nhà thơ Quang Dũng ở bài thơ Tây Tiến. Chính nguồn cảm hứng ấy đã biến thành nguồn cảm xúc tuôn trào, thôi thúc nhà thơ sáng tác. Do đó, bài thơ viết về Tây Bắc và những người lính Tây Tiến nhưng lại là một tác phẩm trữ tình, một cái tôi cá nhân đầy cảm xúc, với nỗi nhớ khi đong đầy, tràn ngập, khi bâng khuâng, luyến tiếc. - Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở cái nhìn đối với thiên nhiên: +Thiên nhiên Tây Bắc với núi đồi trùng điệp, hiểm trở, nhưng với con mắt của những người lính Tây Tiến, những cảnh tượng ấy lại có vẻ đẹp tươi mới, hấp dẫn của sự khám phá, kiếm tìm. +Hơn nữa, người lính Tây Tiến còn tìm thấy ở đó những cảnh thơ mộng. - Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở chân dung người lính lãng mạn, hào hoa: +Xem thường nguy nan, xem thường bệnh tật, cái chết. +Ấp ủ nhiều ước mơ tươi đẹp. - Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở giọng điệu (khi mềm mại, thiết tha, lúc hùng tráng, khoẻ mạnh), ở thủ pháp tương phản (hình ảnh), từ ngữ ước lệ… Đây là những hình thức nghệ thuật rất đặc thù của thơ ca lãng mạn nói chung. 2.Tính chất bi tráng: Tính chất bi tráng luôn bao hàm cả hai yếu tố “bi” và “tráng”, đau thương và cao cả. Cả hai yếu tố này gắn bó, cái bi hàm nền, tôn vinh sự hùng tráng, cao cả. Tính chất bi tráng ở bài thơ Tây Tiến thể hiện ở: - Sự miêu tả trực tiếp, không né tránh những khắc nghiệt, nguy nan luôn rình rập người lính Tây Tiến trên những bước đường hành quân (địa hình hiểm trở, thú rừng hung dũ, bệnh tật…). Đặc biệt, Quang Dũng đã không ngần ngại khi nói đến cái chết, điều mà văn học kháng chiến trong thời gian dài thường né tránh: Rải rác biên cương mồ viễn xứ ………………………………. Áo bào thay chiếu anh về đất - Nhưng khi miêu tả những cảnh đau thương, kể cả cái chết, lời thơ Quang Dũng không làm mềm lòng người đọc. Trái lại, tính chất hùng tráng đã bật lên từ cái bi, bởi đó là cái chết vì lys tưởng cao cả (Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh); cái chết đã hoá thành bất tử (Áo bào thay chiếu anh về đất). - Góp phần tạo nên vẻ đẹp bi tráng ở Tây Tiến là những nét đặc sắc về nghệ thuật. Hàng loạt từ Hán Việt (biên giới, biên cương, viễn xứ, chiến trường…), âm thanh gầm thét của sông Mã đã góp phần mang tính chất nghi lễ. Cần lưu ý là khi nói đến cái chết, nhưng Quang Dũng không dùng động từ đó. Cái chết đối với người lính Tây Tiến là một sự dâng hiến và khi đã dâng hiến thì họ trở về với đất nước, ở trong sự chở che, đùm bọc của Tổ quốc. 3. Đánh giá - Cảm hứng lãng mạn là ngọn nguồn thôi thức sáng tác đối với Quang Dũng, cũng là vẻ đẹp riêng có ở Tây Tiến. - Tính chất bi tráng là sự thể hiện cao nhất của nguồn cảm hứng lãng mạn. Chính tính chất bi tráng ấy đã tạo nên tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến. | |
| | | spring_flavor Admin
Tổng số bài gửi : 367 Age : 33 Registration date : 04/01/2009
| Tiêu đề: Re: Tây Tiến Sat Jan 10, 2009 2:51 pm | |
| Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Kèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Người đi Châu Mộc chiều suơng ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa Phân tích đề: - Đề yêu cầu bình giảng một đoạn thơ của bài Tây Tiến. Người viết cần hiểu và đặt đoạn thơ vào toàn bộ tác phẩm để có thể cảm nhận và bình giảng hay. - Đoạn trích trên nằm ở phần thứ hai của bài thơ. Cả bài thơ là một nỗi nhớ da diết về đoàn quan Tây Tiến. Hai khổ thơ trên là một trường đoạn của nỗi nhớ ấy, tập trung là những kỷ niệm khó quên về con người Tây Bắc, gắn liền với từng bối cảnh cụ thể. Tuy nhiên, hai kỷ niệm ấy dường như tách rời nhau, một đằng là cảnh tượng tưng bừng, tươi mới; một đằng là cảnh tượng man mác buồn thương. Do đó, âm điệu ở mỗi đoạn cũng khác nhau, nói lên từng cung bậc tình cảm của nhà thơ nhớ về Tây Tiến. Bài làm: Tây Tiến là dòng hồi tưởng đầy xúc động của Quang Dũng về binh đoàn Tây Tiến nổi danh một thời. Đoàn quân ấy đã từng trải qua nhiều gian nan, thử thách khắc nghiệt, kể cả hy sinh, mất mát. Nhưng trên con đường hành quân thăm thẳm, binh đoàn Tây Tiến từng có những giờ phút vui vầy, hào hứng: Doang trại bừng lên hội đuốc hoa ………………………………… Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa Tâm hồn nhà thơ, một người trong cuộc, khi hồi tưỏng lại, cũng bâng khuâng, bay bổng và say sưa với từng kỷ niệm. Đó là buổi liên hoan tưng bừng ngay trong doanh trại Tây Tiến: Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Khi nhớ lại đêm liên hoan năm xưa, hồn nhà thơ như đang sống với quá khứ. Và, quá khứ không còn là năm xưa nữa, mà như đang diễn ra, rôn rã: Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Trong đêm tối đen giữa chốn núi rừng, cả doanh trại chợt bừng tình giấc và niềm vui cũng bùng nổ theo. Cuộc sống gian khổ, những ngày cơ cực, trèo đèo, vượt thác hầu như lùi vào dĩ vẵng,chie có ánh sáng cùng cực với sự reo vui lan toả khắp chốn. Ánh đuốc được thắp lên trong trại lính mang đến ánh sáng của lễ hội. Trong doanh trại không chỉ có những người lính: Kìa em xiêm áo tự bao giờ Những người thiếu nữ vùng Tây Tiến đang đóng quân đã đến với họ, vừa thân thuộc, vừa gây ngạc nhiên. Ngạc nhiên vì em đã đến với Tây Tiến khác ngày hôm qua, đến để cùng trẩy hội. Vì thế, đêm liên hoan biến thành “hội đuốc hoa” của tuổi trẻ, khiến người ta nghĩ tới đêm tân hôn rộn ràng. Đến lúc điệu khèn, điệu nhạc trỗi lên, những người trai trẻ thực sự đang sóng với một không khí khác, đang say sưa với hạnh phúc: Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Khổ thơ thứ hai nối tiếp dòng hồi tưởng của Quang Dũng về những kỷ niệm lúc đoàn quân Tây Tiến tạm dừng bước nơi miền sơn cước. Nhưng nếu như đoạn trên là một cảnh tượng vui vầy, tưng bừng cụ thể thì dòng hồi ức lúc này có vẻ tản mạn, mơ màng: Nguời đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa Phải nói ngay rằng, đấy là một khung cảnh buồn. Không gian trải rộng đến mênh mông. Âm điệu chùng xuống, như được kéo giãn ra. Khổ thơ có cấu trúc lạ: bên cạnh một cảnh tượng là một lời nhắc nhở, tâm tình: Châu Mộc chiều sương Có nhớ Hồn lau nẻo bến bờ Người đi trên độc mộc Có thấy Nước lũ hoa đong đưa Dường như ánh mắt quấn quýt, quyến luyến lấy cảnh vật và nỗi nhớ bao trùm, trải rộng khắp không gian. Đành rằng, đấy là cảnh buồn, buồn đến nao lòng. Nhưng thử hỏi, một vùng đất mà nhắc tới nó, người ta nhớ nhung da diết, buồn thương đến vậy có phải là vùng đất ấy đã “hoá tâm hồn” không? Và, nỗi buồn kia mới đáng quý, đáng trọng biết bao! Ở đây cũng cần nói thêm, có những kỷ niệm vốn rất vui, không một lchút gợn buồn. Nhưng một khi đã trở thành ký ức, sống trong hoài niệm thì kỷ niệm ấy lại được bao bọc màn suơng của nhơ nhung và trở thành cảnh buồn. Vì lẽ gì ư? Vì “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Vì hiện tịa, nguời ta đã mất nó, không còn có được cuộc sống những giờ khắc ấy nữa. Âu đó cũng là lẽ thường xưa nay! Hai khổ trên trong bài Tây Tiến là những câu thơ đẹp. Đẹp, vì một vùng đất, vì những con người đã để lại hình bóng không phai mờ trong tâm hồn nhà thơ hào hoa, lãng mạn. Đẹp, vì niềm say mê, nỗi nhớ nhung tha thiết của nhà thơ đối với Tây Bắc và Tây Tiến. | |
| | | spring_flavor Admin
Tổng số bài gửi : 367 Age : 33 Registration date : 04/01/2009
| Tiêu đề: Re: Tây Tiến Sat Jan 10, 2009 2:52 pm | |
| Có ngưòi nói, cảm hứng chủ đạo của bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về Tây Tiến.
Hãy bình giảng đoạn thơ sau để làm sáng tỏ ý kiến trên:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khửu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi Phân tích đề: - Đề yêu cầu bình giảng một đoạn thơ theo hướng chie định: nỗi nhớ về Tây Tiến của Quang Dũng. Vì thế, đây chính là giới hạn về kiểu bài làm văn. Thể loại vẫn là bình giảng thơ trữ tình. - Mặc dù đề chỉ yêu cầu bình giảng phần đầu của bài thơ Tây Tiến, nhưng người viết phải hiểu rõ toàn bài. Qua việc thể hiện cảm thụ chỉ ở phần đầu của bài thơ nhưng ngưòi viết hướng cho độc giả biết nỗi nhớ chính là cảm hứng chủ đạo của toàn bài thơ. Bài làm tham khảo: Lâu nay, nhiều người khi tiếp xúc với Tây Tiến của Quang Dũng thường bị mê hoặc bởi một âm điệu lạ lùng. Chỉ phần đầu của bài thơ thôi, cảm xúc về một thế giới “Tây tiến” đã mở ra, rồi đóng lại mãi: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi ……………………………. Mai Châu mùa em thơm nếp xôi Phải chăng thế giới ấy đã chiếm một vị trí riêng có, duy nhất trong lòng nhà thơ khiến người Tây Tiến – Quang Dũng không thể nào quên? Tây Tiến mở đầu bằng một tiếng kêu, tiếng kêu có phần thảng thốt, buộc miệng mà kêu: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Liền sau đó là nỗi nhớ. Nỗi nhớ tràn về, bất chợt và ào ạt, đến nỗi không còn hiện tại. Con người chìm đắm trong quá khứ, sống với thời đã qua. Và thơ, đã hiện tại hoá cái thời đã mất ấy, biến nó hiển hiện trước mặt. Khả năng hiện thực hoá của thơ mạnh đến nỗi nếu ngắt đi hai câu đầu và hai câu cuối của đoạn thư nhất, người ta nghĩ mình đang sống với Tây Tiến: Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi ........................................................ Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhưng thực ra, đó là hiện thực qua nỗi nhớ, hiện tại trong hoài niệm. Trong tình cảm của con người, buồn, nhớ là những tâm trạng phức tạp, nhiều cung bậc nhất. Khi nhớ, người ta thường rơi vào trạng thái đặc biệt khôn tả, nhiều khi không rõ ràng, mất cả định hướng. Trong bài thơ Việt Bắc, một loại trữ tình tiêu biểu của Tố Hữu và của cả nền thơ kháng chiến chống Pháp, nhưng vẫn có những câu “lạ kỳ”: Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuân trong dạ, bồn chồn bước đi Hoặc: Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương... Song, đấy là những câu thơ diễn tả rất đúng tam trạng con người. Ở Quang Dũng, đó là nỗi “nhớ chơi vơi”, nỗi nhớ khiến lòng nguời hoá thành chông chênh, bồng bềnh, lơ lửng. Khi đã “chơi vơi” thì khoảng cách không gian như xích lại gần, thời gian đồng hiện. Vì thế, trong một đoạn thơ không dài (14 câu) nhưng xuất hiện hàng loạt địa danh: sông Mã, Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu và có lẽ còn nhiều địa điểm vô dnah khác: dốc khúc thuỷ; dốc thăm thẳm; heo hút cồn mây; ngàn thước lên cao; ngàn thước xuống; gục lên súng mũ... Nếu kể các địa danh ở những khổ thơ còn lại, Tây Tiến rất có thể là bài thơ có nhiều địa danh vào bậc nhất. Chắc chắn, các địa danh, địa điểm ấy phải ở rất xa nhau. Các sự kiện (xảy ra trong từng thời gian) cũng ào ạt xuất hiện: sương lấp; hoa về; mưa xa khơi; thác gầm thét; cọp trêu người; cơm lên khói... Lẽ dĩ nhiên, trong thực tế, các sự kiện không xẩy ra cùng lúc. Nhưng trong nỗi nhớ Tây Tiến, nó ùa về, đồng hiện và tràn ngập hồn người. Và, thật kỳ diệu, quá khứ không mất đi mà nguyên vẹn cả hình hài, vóc dáng. Với Quang Dũng, một người Tây Tiến, đã “sống” với Tây Tiến lần thứ mấy. Còn với những ai, không phải người Tây Tiến, qua thơ, Tây Tiến như đang hiển hiện. Tố Hữu từng nói, văn học giúp con người sống cuộc đời khác nhau là như vậy! Ở trên, mói chỉ nói đến cái thế, cái uy của nỗi nhớ Tây Tiến. Bây giờ, nói rõ hơn về hiện thực mà nỗi nhớ ấy đã kéo về. Đầu tiên là cảnh vật, thiên nhiên vùng Tây Bắc mà ngay từ đầu tác giả đã đinh danh : “rừng núi”, tức là một khồn gian rộng lớn, ngút ngàn. Ở đó, có sương khói lấp cả bóng người, có đèo dốc khúc khuỷu, có vực sâu thăm thẳm, có cồn mây heo hút, có gió mưa mịt mù... Rõ ràng là một địa hình phức tạp với khí hậu nghiệt ngã, đúng là nơi chốn người xưa thường nói: ma thiêng nước độc! Nhưng với nhiều tâm hồn lãng mạn, dũng mãnh, ưa khám phá, thiên nhiên ấy có lẽ khá kỳ vĩ, thậm lchí đẹp nữa. Vả lại, vùng đất ấy còn có “hoa về trong đêm hơi”, có bóng nhà thấp thoáng “mưa xa khơi”, có mùi thơm ấm nồng của “nếp xôi”. Cảnh vật thiên nhiên kỳ vĩ, mới lạ nhưng hấp dẫn hồn người. Nếu bài thơ dừng lại ở câu Mai Châu mùa em thơm nếp xôi hoặc tiếp tục phát triển theo hướng đó thì bảo đây là bài thơ “thơ đướng rừng” cũng chẳng sai. Có lần, Quang Dũng tâm sự, hồi còn đi học, nhà thơ rất say mê thơ Mới. Trong số các nhà thơ Mới, Thế Lữ là người ông thích hơn cả, “đặc biệt bài thơ Nhớ rừng, bởi chất tâm trạng sơn dã của nó”. Nhà thơ còn nói: Tôi mô tả trong bài thơ Tây Tiến rất thực, có pha chút âm hưởng Nhớ rừng của Thế Lữ và sau vô tình tôi mới nhận ra... Nhưng đây không phải là thơ đuờng rưng mà là thơ về anh bộ đội ở trong cuộc đời thực. Khi nhớ về rừng núi cũng là nhớ về nói chốn, con đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến, nhớ về người Tây Tiến. Hình bóng đoàn quân ấy thấp thoáng từ xa, trong suơng mù lấp kín rồi hiện dần lên trong cuộc chinh phục địa hình: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Cái nhà của khổ thơ là nói về địa hình trắc trở, không một ngôn từ nào chỉ người (trừ đại từ ai chỉ nơi xa) nhưng bóng dáng con người vẫn hiện ra. Hơn nữa, đó là cuộc hành quân khó khăn, đầy thử thách. Đọc đoạn thơ, người ta không chỉ hình dung từng bước đo khó khăn mà cả hơi thở gấp gáp, mệt mỏi lẫn thế đứng chênh vênh của nguời vượt dốc. Xưa nay, nhiều người khi phân tích đã chỉ ra rất đúng sự khó khăn của địa hình đối với người lính Tây Tiến trên đướng hành quân: khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống. Ở câu thơ Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống có sự cân đối giữa chiều cao và chiều sâu: lên hay xuống đều ghê gớm cả! Song, cấu trúc của ba câu thơ này còn nhiều đặc biệt hơn nữa, không hẳn là sự đối xứng mà là sự gia tăng, chất chồng: Dốc lên khúc khuỷu / dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây / súng ngửi trời Ngàn thước lên cao / ngàn thước xuống Đối với nguời lính Tây Tiến, đường hành quân dường như gian nan cứ dày lên mãi và con ngưòi lại phải vượt lên, cứ phải đi tới. Điều lạ là họ không bị địa hình quái ác ấy khuất phục. Phút giây ngắm nhìn Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi cangc chứng tỏ đoólà những người băng rừng vượt dốc, nhưng không bị gian nan đè chặt tâm hồn, con đường không biến thành nỗi sợ hãi. Bởi vậy, đoạn thơ kế tiếp nêu lên những “thế lực” khác vây lấy người lính Tây Tiến mà chẳng ai sợ hãi: Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm mường Hịch cọp trêu người Có lẽ, nỗi sợ hãi được thay thế bằng sự tò mò, khám phá. Nên nhớ, những thập niên 30,40 của thế kỷ trước, nhiều thanh thiếu niên Việt Nam rất thích phiêu lưu, mạo hiểm, thích rày đây mai đó để thoát khỏi cuộc sống chật hẹp, nhàm chán. Trước năm 1945, Quang Dũng đã là người như thế. Còn nhiều anh bộ đội Tây Tiến vốn là các chàng trai của đất Hà thành. Ở môi trường mới, hoàn cảnh mới những nét tính cách kia vẫn còn chăng? Và một khi được khám phá cái mới lạ, dù nguy hiểm, con người vẫn thích thú hơn là sợ hãi. Nếu hiểu như vậy thì hai câu thơ: Anh bạn dãi dầu không bước nữa / Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Không nên cho đấy là cái chết như có người đã phân tích. Hiểu rõ đó là những phút giây mệt mỏi (vì dãi dầu) người lính tạm dựng bước trên đường hành quân sẽ phù hợp hơn. Cũng có thể hiểu một thêm, gốc gác lính Tây Tiến là những chàng trai Hà Nội nên cốt cách đôi khi kiêu bạc, bất cần đời, bạ đâu nghỉ đó, không như người lính Đồng chí của Chính Hữu hay nhớ của Hồng Nguyên. Vả lại, đây chưa phải là lúc Quang Dũng nhớ về người lính Tây Tiến với những hy sinh, mất mát như ở đoạn thơ cuối. Càng không thể cho đây là cái chết bởi hai câu thơ liền kề, kết thúc một trường đoạn haòi niệm, là hình ảnh rất thi vị: Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi Câu thơ diễn tả khung cảnh thật thanh bình, dường như không hề có chiến tranh. Đó là những khoảnh khắc có thật, dù ít ỏi đi chăng nữa, trên con đường hành quân khắc nghiệt của đoàn quân Tây Tiến. Thời gian càng lùi xa, càng phủ lên làn khói cơm chiều ấy vẻ đẹp của sự bình yên và thân thuộc, càng gây thêm mùi nhơ của hương vị nếp xôi thơm nồng. Câu thơ trên với ba vần trắc (nhớ, Tiến, khói) như chạm khắc làn khói cơm chiều vào bầu trời ký ức. Câu thơ thứ hai hầu hết là vần bằng (chỉ có một vần trắc: nếp) lại đưa đẩy, khuếch tán cái vị ngọt ngào ấy vào sâu tâm hồn con nguời. Câu thơ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi cong có một từ đặc biệt: mùa em. Khi tiếp xúc vơi Tây Tiến, ai cũng thừa nhận chính từ ấy đã làm cho câu thơ trở nên lạ lùng và... khó hiểu! Chắc là trước Quang Dũng chưa ai sử dụng mỹ từ đó. Điều mà mọi ngưòi đều thừa nhận là kho đã trỏ thành anh Vệ quốc quân, nhà thơ của chúng ta vẫn là chàng trai hào hoa và... lãng mạn. Ở bài thơ viết năm 1949, sau Tây Tiến một năm, Đôi mắt người Sơn Tây, một bài thơ nói về những mất mát trong chiến tranh còn thảm khốc hơn nhiều, Quang Dũng vẫn còn có những hình ảnh và ngôn từ sang trọng, không kém phần mỹ lệ: Vâng trán em mang trời quê hương Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương... Chiến tranh không làm mất đi nét hào hoa và lãng mạn ở Quang Dũng.Tôi đồ rằng, ở nhà thơ này còn có một thước đo riêng. Đó là thước đo của cái Đẹp và từ phía Đẹp. Thiên nhiên, thời gian cũng được nhà htơ đo bằng thước đo ấy. Người đời đã có mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, mùa đông. Quang Dũng, với Tây Tiến, có thêm ít nhất một mùa nữa. Mùa ấy có chiều kích ở đôi mắt và tâm hồn của chính thi nhân. Sông Mã xa rồi… thơm nếp xôi là một trường đoạn trong nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về Tây Tiến. Nỗi nhớ ấy làm hiện lên một vùng đất với thiên nhiên vừa hùng vĩ vừa khắc nghiệt, vừa đầy thơ mộng vừa hết sức nguy nan. Nhưng xao động lòng người vẫn là chân dung của những người lính Tây Tiến rất đỗi hào hùng và hào hoa. Cho dù thời gian có biến tất cả trở thành quá khứ nhưng Tây Bắc và người lính Tây Tiến qua thơ Quang Dũng vẫn còn đọng lại mãi. | |
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Tây Tiến | |
| |
| | | | Tây Tiến | |
|
Trang 1 trong tổng số 1 trang | |
Similar topics | |
|
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |
|